Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

Thơ Heinrich Heine - Phần 9



=(Jenny)

193.GỬI JENNY

Tôi bây giờ đã là ba lăm tuổi
Còn em thì chỉ vừa mới mười lăm
Nhưng mỗi lần nhìn em, Jenny ạ
Giấc mơ xưa lại thức dậy trong lòng!

Vào năm một nghìn tám trăm mười bảy
Tôi gặp một người con gái như em
Mái tóc của nàng giống như em vậy
Giống cả nụ cười, dáng vẻ tự nhiên.

Thế rồi tôi bước vào trường Đại học
Tôi dặn nàng: “Hãy gắng đợi chờ anh
Anh sẽ quay về một ngày gần nhất”
Nàng nói rằng: “Em mãi mãi của anh”.

Ba năm trời học ở Göttingen
Ba năm miệt mài với bao sách luật
Thế rồi một hôm nhận thư biết được
Người yêu của tôi đã bước theo chồng.

Khi đó tháng Năm, khi đó mùa xuân
Những bông hoa nở đầy trong thung lũng
Những con chim đã cất tiếng hót vang
Những con sâu cũng vui đùa trong nắng.

Nhưng tôi buồn, xanh xao và u ám
Vì buồn đau mà sức lực không còn
Chỉ có Chúa Trời may ra thấu tận
Những điều gì tôi đã chịu hằng đêm.

Nhưng tôi phục hồi. Như cây sồi xanh
Vẻ mạnh mẽ hiện trong từng nhánh lá
Giờ mỗi lần nhìn em, Jenny ạ
Giấc mơ xưa lại thức dậy trong lòng!

An Jenny

Ich bin nun fünfunddreißig Jahr alt,
Und du bist fünfzehnjährig kaum ...
O Jenny, wenn ich dich betrachte,
Erwacht in mir der alte Traum!

Im Jahre achtzehnhundert siebzehn
Sah ich ein Mädchen, wunderbar
Dir ähnlich an Gestalt und Wesen,
Auch trug sie ganz wie du das Haar.

Ich geh auf Universitäten,
Sprach ich zu ihr, ich komm zurück
In kurzer Zeit, erwarte meiner.
Sie sprach: "Du bist mein einzges Glück."

Drei Jahre schon hatt ich Pandekten
Studiert, als ich am ersten Mai
Zu Göttingen die Nachricht hörte,
Daß meine Braut vermählet sei.

Es war am ersten Mai! Der Frühling
Zog lachend grün durch Feld und Tal,
Die Vögel sangen, und es freute
Sich jeder Wurm im Sonnenstrahl.

Ich aber wurde blaß und kränklich,
Und meine Kräfte nahmen ab;
Der liebe Gott nur kann es wissen,
Was ich des Nachts gelitten hab.

Doch ich genas. Meine Gesundheit
Ist jetzt so stark wie'n Eichenbaum ...
O Jenny, wenn ich dich betrachte,
Erwacht in mir der alte Traum!


=(Emma)

194.ÔNG ĐỨNG ĐÓ NHƯ MỘT THÂN CÂY VỮNG

Ông đứng đó như một thân cây vững
Trong lạnh lùng, trong nóng bỏng, gió sương
Những ngón chân của người trong đất cứng
Còn những cánh tay về phía trời xanh.

Bagiratha từng khổ đau như vậy
Và thần Brama đã giúp đỡ cho ông
Ngài đã biến nước mắt thành dòng chảy
Và sông Hằng đổ xuống tự trời xanh.

Nhưng còn tôi yêu em trong vô vọng
Mà em thì không một chút xót thương
Từ đôi mắt em như bầu trời xanh
Không một giọt nước mắt nào chảy xuống.
____________
*Bagiratha (tiếng Anh: Bhagiratha; tiếng Phạn: भगीरथ,)  – vị vua huyền thoại của Ấn Độ, người đã mang sông Hằng từ bầu trời xuống mặt đất.

Er steht so starr wie ein Baumstamm

Er steht so starr wie ein Baumstamm,
In Hitz’ und Frost und Wind,
Im Boden wurzelt die Fußzeh’,
Die Arme erhoben sind.

So quält sich Bagiratha lange,
Und Brama will enden sein Weh’,
Er läßt den Ganges fließen
Herab von der Himmelshöh’.

Ich aber, Geliebte, vergebens
Martre und quäl’ ich mich ab,
Aus deinen Himmelsaugen
Fließt mir kein Tropfen herab.


195.NIỀM HẠNH PHÚC BẤT TẬN

Niềm hạnh phúc bất tận
Anh chờ nó cả ngày
Ánh mắt em láu lỉnh
Say đắm và ngất ngây.

Lời nói thì nghèo khó
Lời nói thì vụng về
Lời vội bay theo gió
Như con bướm ngoài kia.

Nhưng mắt thì vô tận
Nhưng mắt thì vô cùng
Ngực em như trời xanh
Có bao vì sao sáng.

Vier und zwanzig Stunden soll ich

Vier und zwanzig Stunden soll ich
Warten auf das höchste Glück,
Das mir blinzelnd süß verkündet,
Blinzelnd süß der Seitenblick.

O! die Sprache ist so dürftig,
Und das Wort ein plumpes Ding;
Wird es ausgesprochen, flattert
Fort der schöne Schmetterling.

Doch der Blick, der ist unendlich,
Und er macht unendlich weit
Deine Brust, wie einen Himmel
Voll gestirnter Seligkeit.


196.CHẲNG CÓ MỘT NỤ HÔN

Chẳng có một nụ hôn
Của tình trong nhiều tháng
Môi của tôi khô cứng
Tôi cô đơn, tôi buồn.

Dường như cảm thấy gần
Người yêu trong hơi thở
Bỗng nhiên không còn nữa
Hạnh phúc vút qua nhanh.

Nicht mahl einen einz’gen Kuß

Nicht mahl einen einz’gen Kuß,
Nach so monatlangem Lieben!
Und so bin ich Allerärmster
Trocknen Mundes stehn geblieben.

Einmahl kam das Glück mir nah –
Schon konnt ich den Athem spüren –
Doch es flog vorüber – ohne
Mir die Lippen zu berühren.


197.EMMA ƠI, HÃY NÓI THẬT VỚI ANH

Emma ơi, hãy nói thật với anh
Có phải vì yêu mà anh dại dột?
Hay là bản thân tình yêu điên cuồng
Chính là hậu quả của điều ngu ngốc?

Emma ơi, nỗi khổ hành hạ anh
Ngoài mối tình của anh đồ sộ đó
Ngoài tình yêu điên cuồng, anh còn khổ
Vì đã rơi vào tình thế lưỡng nan.

Emma, sage mir die Wahrheit

Emma, sage mir die Wahrheit:
Ward ich närrisch durch die Liebe?
Oder ist die Liebe selber
Nur die Folge meiner Narrheit?

Ach! mich quälet, teure Emma,
Außer meiner tollen Liebe,
Außer meiner Liebestollheit,
Obendrein noch dies Dilemma.


198.SỐNG VỚI EM XUNG KHẮC VÀ CÃI CỌ

Sống với em, xung khắc và cãi cọ
Muốn bỏ nhà bỏ cửa để lang thang
Nhưng xa em thấy cái chết rất gần
Anh sống mà không còn ra sống nữa.

Rồi hằng đêm anh đã nằm suy nghĩ:
Chọn Cái chết hay Địa ngục trần gian -
Và tin rằng đó là điều khốn khổ
Đã biến anh thành một kẻ điên cuồng.

Bin ich bei dir, Zank und Not

Bin ich bei dir, Zank und Not!
Und ich will mich fortbegeben!
Doch das Leben ist kein Leben
Fern von dir, es ist der Tod.

Grübelnd lieg ich in der Nacht,
Zwischen Tod und Hölle wählend -
Ach! ich glaube, dieses Elend
Hat mich schon verrückt gemacht.


199.TẤT CẢ CUỐI ĐỜI TRỞ NÊN KHỦNG KHIẾP

Tất cả cuối đời trở nên khủng khiếp
Bóng đêm dài đang đi tới rất mau
Hồn mỏi mệt, ta đưa mắt nhìn nhau
Và rồi thở dài và rồi ngáp vặt.

Em đã già, anh lại càng già hơn
Tuổi thanh xuân đâu còn quay trở lại
Em tê tái, anh lại càng tê tái
Còn mùa đông thì còn lạnh lùng hơn.

Đời là thế, kết cục thật đau buồn
Sau những đam mê, điều gì còn lại
Chỉ những mối lo mà chẳng có tình
Sau cuộc đời, cái chết kia sẽ tới.

Schon mit ihren schlimmsten Schatten

Schon mit ihren schlimmsten Schatten
Schleicht die böse Nacht heran;
Unsre Seelen, sie ermatten,
Gähnend schauen wir uns an.

Du wirst alt und ich noch älter,
Unser Frühling ist verblüht.
Du wirst kalt und ich noch kälter,
Wie der Winter näher zieht.

Ach, das Ende ist so trübe!
Nach der holden Liebesnot
Kommen Nöten ohne Liebe,
Nach dem Leben kommt der Tod.


=Những bài ca sáng tạo (Schöpfungslieder)

200.CHÚA TẠO RA MẶT TRỜI

Chúa tạo ra mặt trời
Những ngôi sao sau đấy
Và tạo ra con bò
Từ giọt mồ hôi chảy.

Ngài tạo thú hoang dã:
Sư tử chân kinh hoàng
Và theo mẫu sư tử
Ngài tạo chú mèo con.

Ngài tạo ra đàn ông
Giữa thú rừng hoang dã
Và tạo ra con khỉ
Gần giống với đàn ông.

Quỉ thấy vậy cười gằn:
Chúa lặp lại chính mình
Lấy con bò làm mẫu
Ngài tạo chú bê con.

Im Beginn schuf Gott die Sonne

Im Beginn schuf Gott die Sonne,
Dann die nächtlichen Gestirne;
Hierauf schuf er auch die Ochsen,
Aus dem Schweiße seiner Stirne.

Später schuf er wilde Bestien,
Löwen mit den grimmen Tatzen;
Nach des Löwen Ebenbilde
Schuf er hübsche kleine Katzen.

Zur Bevölkerung der Wildnis
Ward hernach der Mensch erschaffen;
Nach des Menschen holdem Bildnis
Schuf er intressante Affen.

Satan sah dem zu und lachte:
Ei, der Herr kopiert sich selber!
Nach dem Bilde seiner Ochsen
Macht er noch am Ende Kälber!


201.CHÚA TRẢ LỜI VỚI QUỶ

Chúa trả lời với quỷ:
Ta là Chúa, vì thế
Theo mặt trời – tạo sao
Theo mẫu bò – tạo bê
Theo sư tử đáng sợ
Tạo con mèo đáng yêu
Theo con người – tạo khỉ
Còn mi, tạo gì đâu?

Und der Gott sprach zu dem Teufel

Und der Gott sprach zu dem Teufel:
Ich, der Herr, kopier mich selber,
Nach der Sonne mach ich Sterne,
Nach den Ochsen mach ich Kälber,
Nach den Löwen mit den Tatzen
Mach ich kleine liebe Katzen,
Nach den Menschen mach ich Affen;
Aber du kannst gar nichts schaffen.


202.CON NGƯỜI, SƯ TỬ, BÒ, MẶT TRỜI

Con người, sư tử, bò, mặt trời
Ta tạo ra vì vinh quang, giá trị
Còn những vì sao, bê, mèo, khỉ
Ta tạo ra chỉ để giải trí thôi.

Ich hab mir zu Ruhm und Preis erschaffen

Ich hab mir zu Ruhm und Preis erschaffen
Die Menschen, Löwen, Ochsen, Sonne;
Doch Sterne, Kälber, Katzen, Affen
Erschuf ich zu meiner eigenen Wonne.


203.TA TẠO DỰNG THẾ GIAN

Ta tạo dựng thế gian
Chỉ trong vòng một tuần
Nhưng kế hoạch sáng tạo
Ấp ủ cả ngàn năm.

Tạo dựng – là quá trình
Dù nhào nặn giây lát
Nhưng cần phải xem xét
Nghệ sĩ mới xứng danh.

Có lẽ ba trăm năm
Ta suy nghĩ, dằn vặt:
Tạo ông tiến sĩ luật
Hay bọ chét loăng quăng.

Kaum hab ich die Welt zu schaffen begonnen

Kaum hab ich die Welt zu schaffen begonnen,
In einer Woche wars abgetan.
Doch hatt ich vorher tief ausgesonnen
Jahrtausendlang den Schöpfungsplan.

Das Schaffen selbst ist eitel Bewegung,
Das stümpert sich leicht in kurzer Frist;
Jedoch der Plan, die Überlegung,
Das zeigt erst, wer ein Künstler ist.

Ich hab allein dreihundert Jahre
Tagtäglich drüber nachgedacht,
Wie man am besten Doctores juris
Und gar die kleinen Flöhe macht.


204.NGÀY THỨ SÁU CHÚA BẢO

Ngày thứ sáu Chúa bảo:
Đã đến ngày cuối cùng
Sự sáng tạo tuyệt diệu
Tất cả đã thành công.

Chao ôi mặt trời vàng
Lấp lánh trên đại dương!
Chao ôi cây tỏa bóng
Như trong một bức tranh?

Không trắng như tuyết tùng
Bầy chiên trên đồng cỏ?
Chẳng lẽ không tuyệt mỹ
Sắc đẹp của thiên nhiên?

Đất, trời đã tạo xong
Như lòng ta mong muốn.
Loài người sẽ ca tụng
Thiên Chúa suốt vĩnh hằng!

Sprach der Herr am sechsten Tage

Sprach der Herr am sechsten Tage:
Hab am Ende nun vollbracht
Diese große, schöne Schöpfung,
Und hab alles gut gemacht.

Wie die Sonne rosengoldig
In dem Meere widerstrahlt!
Wie die Bäume grün und glänzend!
Ist nicht Alles wie gemalt?

Sind nicht weiß wie Alabaster
Dort die Lämmchen auf der Flur?
Ist sie nicht so schön vollendet
Und natürlich die Natur?

Erd und Himmel sind erfüllet
Ganz von meiner Herrlichkeit,
Und der Mensch, er wird mich loben
Bis in alle Ewigkeit!


205.VẬT CHẤT ĐỂ TẠO RA THƠ

Vật chất, vật liệu để tạo ra thơ
Đâu phải lấy từ ngón tay là có
Ngay Thiên Chúa cũng không tạo ra gì
Nếu vật chất của Ngài không đầy đủ.

Từ cát bụi thuở hồng hoang xưa cổ
Ngài đã tạo nên một người đàn ông
Rồi từ xương sườn người đàn ông đó
Ngài tạo nên phụ nữ đẹp tuyệt trần.

Từ cát bụi Ngài tạo ra trời xanh
Và thiên thần tạo ra từ phụ nữ.
Mà vật chất chỉ trở nên giá trị
Nhờ sự gọt mài nghệ thuật dày công.

Der Stoff, das Material des Gedichts

Der Stoff, das Material des Gedichts,
Das saugt sich nicht aus dem Finger;
Kein Gott erschafft die Welt aus nichts,
So wenig wie irdische Singer.

Aus vorgefundenem Urweltsdreck
Erschuf ich die Männerleiber,
Und aus dem Männerrippenspeck
Erschuf ich die schönen Weiber.

Den Himmel erschuf ich aus der Erd
Und Engel aus Weiberentfaltung;
Der Stoff gewinnt erst seinen Wert
Durch künstlerische Gestaltung.


206.SÁNG TẠO ĐỂ LÀM GÌ

Sáng tạo để làm gì?
Một câu hỏi như vậy
Tâm hồn tôi bừng cháy
Như ngọn lửa điên rồ.

Bệnh tật là lý do
Thôi thúc sự sáng tạo
Tôi cảm thấy mạnh khỏe
Khi sáng tạo điều gì.

Warum ich eigentlich erschuf

Warum ich eigentlich erschuf
Die Welt, ich will es gern bekennen:
Ich fühlte in der Seele brennen
Wie Flammenwahnsinn, den Beruf.

Krankheit ist wohl der letzte Grund
Des ganzen Schöpferdrangs gewesen;
Erschaffend konnte ich genesen,
Erschaffend wurde ich gesund.


=(Friederike)

207.TA BỎ LẠI BERLIN ĐẦY BỤI BẶM

Ta bỏ lại Berlin đầy bụi bặm
Nước trà loãng, lắm chuyện những con người
Nơi nhân gian và cả Đức Chúa Trời
Thì Hegel đã từ lâu nói đến.

Ta đi về Ấn Độ, nơi đầy nắng
Long diên hương ngào ngạt tỏa mùi thơm
Những người hành hương về với sông Hằng
Vẻ thành kính trong áo quần màu trắng.

Ở nơi đó cây cọ mọc giăng hàng
Bên bờ sông thiêng hoa sen đua nở
Lâu đài Indra muôn thuở màu xanh.

Và ở đó, với vẻ rất chân thành
Anh phủ phục dưới chân em và nói:
–Thưa phu nhân! Em đẹp nhất trần gian!
__________________
*Indra – là một trong những vị thần tối cao của đạo Hindu.

Verlaß Berlin, mit seinem dicken Sande

Verlaß Berlin, mit seinem dicken Sande
Und dünnen Tee und überwitzgen Leuten,
Die Gott und Welt, und was sie selbst bedeuten,
Begriffen längst mit Hegelschem Verstande.

Komm mit nach Indien, nach dem Sonnenlande,
Wo Ambrablüten ihren Duft verbreiten,
Die Pilgerscharen nach dem Ganges schreiten,
Andächtig und im weißen Festgewande.

Dort, wo die Palmen wehn, die Wellen blinken,
Am heilgen Ufer Lotosblumen ragen
Empor zu Indras Burg, der ewig blauen;

Dort will ich gläubig vor dir niedersinken,
Und deine Füße drücken, und dir sagen:
Madame! Sie sind die schönste aller Frauen!


208.SÔNG HẰNG CHẢY, LINH DƯƠNG ĐƯA MẮT NGÓ

Sông Hằng chảy, linh dương đưa mắt ngó
Rồi nhảy ra từ những tán lá xanh
Với chiếc đuôi đầy màu sắc sặc sỡ
Đang bước ra biểu diễn những con công.

Thung lũng mặt trời từ sâu thẳm trái tim
Nhiều hoa mới đang tưng bừng đua nở
Chim đỗ quyên ca lời hát thật buồn
Em đẹp nhất giữa muôn vàn phụ nữ!

Thần Kama nghe ra từ tất cả
Ngài vẫn sống trong lồng ngực của em
Và thở bằng những lời hát diệu huyền.

Ta thấy Wassant trên đôi môi xinh
Trong mắt em ta tìm ra đời mới
Bởi đời này chật chội quá rồi em.
_____________
*Kokilas – chim đỗ quyên của Ấn Độ; Kama – thần tình yêu của Ấn Độ; Wassant – thần mùa xuân của Ấn Độ.

Der Ganges rauscht, mit klugen Augen schauen

Der Ganges rauscht, mit klugen Augen schauen
Die Antilopen aus dem Laub, sie springen
Herbei mutwillig, ihre bunten Schwingen
Entfaltend, wandeln stolzgespreizte Pfauen.

Tief aus dem Herzen der bestrahlten Auen
Blumengeschlechter, viele neue, dringen,
Sehnsuchtberauscht ertönt Kokilas Singen -
Ja, du bist schön, du schönste aller Frauen!

Gott Kama lauscht aus allen deinen Zügen,
Er wohnt in deines Busens weißen Zelten,
Und haucht aus dir die lieblichsten Gesänge;

Ich sah Wassant auf deinen Lippen liegen,
In deinem Aug' entdeck ich neue Welten,
Und in der eignen Welt wirds mir zu enge.


209.SÔNG HẰNG CHẢY, ÔI SÔNG HẰNG VĨ ĐẠI

Sông Hằng chảy, ôi sông Hằng vĩ đại
Himalaya trong ánh lửa hoàng hôn
Những voi mẹ, voi con trong rừng tối
Chúng giẫm chân và vội vã gầm lên.

Bức tranh đẹp! Ta thà đem đổi ngựa*
Để lấy bức tranh tuyệt đẹp thế này
Vẻ đẹp này không gì so sánh nổi
Mang cho ta sảng khoái với niềm vui.

Thật vô ích ngươi nhìn ta nhởn nhơ
Nhưng vật lộn với vần và cảm giác
Ngươi mỉm cười trên đau khổ của ta.

Cứ cười đi! Nhưng sau nụ cười kia
Những nhạc công vẫn ôm đàn và hát**
Trong ánh vàng cung điện tỏa từ xa.
______________
*Ta thà đem đổi ngựa (Mein Pferd für'n gutes Bild!) – câu này mỉa mai nhắc lại lời của vua Richard III từ vở kịch “Richard III” của William Shakespeare: “Ôi ngựa, ôi ngựa! Ta đem cả vương quốc đổi ngựa!” (A horse, a horse! My kingdom for a horse!  –  Màn V, cảnh IV).
**Những nhạc công (Gandarven) – trong thần thoại Ấn Độ là những vị thần trẻ, những nhạc công trong cung điện của thần Indra.

Der Ganges rauscht, der große Ganges schwillt

Der Ganges rauscht, der große Ganges schwillt,
Der Himalaja strahlt im Abendscheine,
Und aus der Nacht der Banianenhaine
Die Elefantenherde stürzt und brüllt -

Ein Bild! Ein Bild! Mein Pferd für'n gutes Bild!
Womit ich dich vergleiche, Schöne, Feine,
Dich Unvergleichliche, dich Gute, Reine,
Die mir das Herz mit heitrer Lust erfüllt!

Vergebens siehst du mich nach Bildern schweifen,
Und siehst mich mit Gefühl und Reimen ringen -
Und, ach! du lächelst gar ob meiner Qual!

Doch lächle nur! Denn wenn du lächelst, greifen
Gandarven nach der Zither, und sie singen
Dort oben in dem goldnen Sonnensaal.



=(Katharina)

210.NGÔI SAO HIỆN TRONG ĐÊM TỐI CỦA TÔI

Ngôi sao hiện trong đêm tối của tôi
Niềm an ủi ngọt ngào đang nghiêng xuống
Cuộc đời mới cho tôi đầy hứa hẹn –
Ôi, xin chớ dối lừa!

Giống như sóng biển hướng về mặt trăng kia
Con sóng lòng tôi cũng về em hướng đến
Thứ ánh sáng vẫn không ngừng tỏa rạng
Ôi, xin chớ dối lừa!

Ein schöner Stern geht auf in meiner Nacht

Ein schöner Stern geht auf in meiner Nacht,
Ein Stern, der süßen Trost herniederlacht
Und neues Leben mir verspricht -
O, lüge nicht!

Gleichwie das Meer dem Mond entgegenschwillt,
So flutet meine Seele, froh und wild,
Empor zu deinem holden Licht -
O, lüge nicht!


211.GIỐNG NHƯ CHÀNG MERLIN

Giống như chàng Merlin
Tôi rơi vào xiềng xích
Đành chỉ biết quay vòng
Cái vòng tròn ma thuật.

Nằm ở dưới chân nàng
Tôi chìm vào quên lãng
Tôi nhìn vào mắt em
Giờ khắc trôi chầm chậm.

Những giờ, ngày và tuần
Trôi đi như giấc ngủ
Nói gì – không nhớ nữa
Cũng chẳng nhớ lời em.

Đôi khi tôi cảm thấy
Bờ môi chạm vào nhau
Và nhận ra điều này
Trong lòng tôi lửa cháy.
_______________
*Merlin là một pháp sư trong cung điện của vua Arthur. Nhân vật trong nhiều câu chuyện được gọi là “Truyền thuyết Arthur” (Romances Arthur) ở châu Âu thời Trung cổ.

Wie Merlin, der eitle Weise

Wie Merlin, der eitle Weise,
Bin ich armer Nekromant
Nun am Ende festgebannt
In die eignen Zauberkreise.

Festgebannt zu ihren Füßen
Lieg ich nun, und immerdar
Schau ich in ihr Augenpaar;
Und die Stunden, sie verfließen.

Stunden, Tage, ganze Wochen,
Sie verfließen wie ein Traum,
Was ich rede, weiß ich kaum,
Weiß auch nicht, was sie gesprochen.

Manchmal ist mir, als berühren
Ihre Lippen meinen Mund -
Bis in meiner Seele Grund
Kann ich dann die Flammen spüren.


212.ANH YÊU LÀN DA TRẮNG

Anh yêu làn da trắng
Yêu tâm hồn dịu dàng
Đôi mắt to, vầng trán
Dưới mái tóc đen huyền.

Anh đi khắp thế gian
Tìm một người như em
Và bây giờ tìm thấy
Em thật xứng với anh.

Em tìm thấy trong anh
Những thứ mà em cần
Em yêu anh rồi bỏ
Điều đó vốn lẽ thường.

Ich liebe solche weiße Glieder

Ich liebe solche weiße Glieder,
Der zarten Seele schlanke Hülle,
Wildgroße Augen und die Stirne
Umwogt von schwarzer Lockenfülle!

Du bist so recht die rechte Sorte,
Die ich gesucht in allen Landen;
Auch meinen Wert hat euresgleichen
So recht zu würdigen verstanden.

Du hast an mir den Mann gefunden,
Wie du ihn brauchst. Du wirst mich reichlich
Beglücken mit Gefühl und Küssen,
Und dann verraten, wie gebräuchlich.


213.MÙA XUÂN VỀ TRƯỚC NGÕ

Mùa xuân về trước ngõ
Anh vẫn đợi vẫn chờ
Cả đất trời bừng nở
Giống như một vườn hoa.

Có em ngồi bên anh
Khi xe vừa lăn bánh
Em nhìn anh trìu mến
Tim em đập rộn ràng.

Cả đất trời ngát hương!
Chuỗi ngọc xanh lấp lánh!
Những nụ hoa màu trắng
Trên cây cũng vui mừng.

Những bông hoa ngước lên
Nhìn người em xinh đẹp
Và anh chàng hạnh phúc –
Người đó chính là anh.

Hạnh phúc vốn qua nhanh
Mai lưỡi liềm sẽ cắt
Xuân yêu thương sẽ chết
Và em sẽ phụ tình.

Der Frühling schien schon an dem Tor

Der Frühling schien schon an dem Tor
Mich freundlich zu erwarten.
Die ganze Gegend steht im Flor
Als wie ein Blumengarten.

Die Liebste sitzt an meiner Seit
Im rasch hinrollenden Wagen;
Sie schaut mich an voll Zärtlichkeit,
Ihr Herz, das fühl ich schlagen.

Das trillert und duftet so sonnenvergnügt!
Das blinkt im grünen Geschmeide!
Sein weißes Blütenköpfchen wiegt
Der junge Baum mit Freude.

Die Blumen schaun aus der Erd hervor,
Betrachten, neugierigen Blickes,
Das schöne Weib, das ich erkor,
Und mich, den Mann des Glückes.

Vergängliches Glück! Schon morgen klirrt
Die Sichel über den Saaten,
Der holde Frühling verwelken wird,
Das Weib wird mich verraten.


=Ở nước ngoài (In der Fremde)

214.ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH

Đời là cuộc hành trình
Không có đường trở lại
Lời trong gió dịu dàng
Bạn không sao hiểu nổi.

Tình bỏ lại sau lưng
Vẫn dịu dàng mời gọi:
– Quay về, hỡi người thương
Em vẫn chờ anh đấy!

Nhưng bạn không thể dừng
Đời không yên một chỗ
Với người yêu đã từng
Bạn không còn gặp nữa.

Es treibt dich fort von Ort zu Ort

Es treibt dich fort von Ort zu Ort,
Du weißt nicht mal warum;
Im Winde klingt ein sanftes Wort,
Schaust dich verwundert um.

Die Liebe, die dahinten blieb,
Sie ruft dich sanft zurück:
O komm zurück, ich hab dich lieb,
Du bist mein einzges Glück!

Doch weiter, weiter, sonder Rast,
Du darfst nicht stillestehn;
Was du so sehr geliebet hast,
Sollst du nicht wiedersehn.


215.HÔM NAY SAO BẠN BUỒN

Hôm nay sao bạn buồn
Lâu nay đâu có thế!
Nước mắt rơi trên má
Và tiếng thổn thức lòng.

Hay bạn nhớ quê hương
Đã mờ trong sương vắng?
Hay bạn đang vui sướng
Trong đất nước của mình.

Hay nhớ người yêu thương
Đôi khi bạn nổi giận
Nhưng nàng vẫn ngoan ngoãn
Và bạn vội làm lành?

Hay nhớ những anh em
Trong những ngày hoạn nạn?
Khi bờ môi câm nín
Nhưng ý nghĩ ngập lòng.

Hay nhớ mẹ, nhớ em?
Đã từng rất thân ái
Tôi nghĩ rằng điều ấy
Sẽ tan chảy như băng.

Hay bạn nhớ khu vườn
Chim chóc và cây cối
Những ước mơ ngày ấy
Giờ bạn vẫn còn mong?

Muộn rồi. Đã đến đêm
Trước mặt con đường tuyết
Than ôi! Tôi vội mặc
Quần áo để lên đường.

Du bist ja heut so grambefangen

Du bist ja heut so grambefangen,
Wie ich dich lange nicht geschaut!
Es perlet still von deinen Wangen,
Und deine Seufzer werden laut.

Denkst du der Heimat, die so ferne,
So nebelferne dir verschwand?
Gestehe mirs, du wärest gerne
Manchmal im teuren Vaterland.

Denkst du der Dame, die so niedlich
Mit kleinem Zürnen dich ergötzt?
Oft zürntest du, dann ward sie friedlich,
Und immer lachtet ihr zuletzt.

Denkst du der Freunde, die da sanken
An deine Brust, in großer Stund?
Im Herzen stürmten die Gedanken,
Jedoch verschwiegen blieb der Mund.

Denkst du der Mutter und der Schwester?
Mit beiden standest du ja gut.
Ich glaube gar, es schmilzt, mein Bester,
In deiner Brust der wilde Mut!

Denkst du der Vögel und der Bäume
Des schönen Gartens, wo du oft
Geträumt der Liebe junge Träume,
Wo du gezagt, wo du gehofft?

Es ist schon spät. Die Nacht ist helle,
Trübhell gefärbt vom feuchten Schnee.
Ankleiden muß ich mich nun schnelle
Und in Gesellschaft gehn. O weh!


216.TÔI TỪNG CÓ MỘT QUÊ HƯƠNG XINH ĐẸP

Tôi từng có một quê hương xinh đẹp
Trên đồi cao nghiêng bóng  những cây sồi
Và những cành hoa tím vẫy chào tôi
Nhưng đấy chỉ là giấc mơ ngày trước.

Người hôn tôi và nói bằng tiếng Đức
(Liệu bạn có tin tôi nói điều này
Ngọt ngào biết bao) lời: “Ta yêu người!”
Nhưng đấy chỉ là giấc mơ ngày trước.

Ich hatte einst ein schönes Vaterland

Ich hatte einst ein schönes Vaterland.
Der Eichenbaum
Wuchs dort so hoch, die Veilchen nickten sanft.
Es war ein Traum.

Das küßte mich auf deutsch, und sprach auf deutsch
(Man glaubt es kaum,
Wie gut es klang) das Wort: »ich liebe dich!«
Es war ein Traum.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét