Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

Thơ Heinrich Heine - Phần 8


164.EM CƯ XỬ VỚI ANH CHẲNG RA GÌ

Em cư xử với anh chẳng ra gì
Thì người đời không một ai biết đến
Nhưng rồi đây khi ngồi bên bờ biển
Những nỗi niềm anh sẽ kể cá nghe.

Cái tên em anh không hề bôi bẩn
Nhưng điều này chỉ ở chốn đất bằng
Còn ngoài kia, giữa đại dương mênh mông
Sẽ có điều làm cho em hổ thẹn.

Wie schändlich du gehandelt

Wie schändlich du gehandelt,
Ich hab es den Menschen verhehlet,
Und bin hinausgefahren aufs Meer,
Und hab es den Fischen erzählet.

Ich laß dir den guten Namen
Nur auf dem festen Lande;
Aber im ganzen Ozean
Weiß man von deiner Schande.


165.NHỮNG CON SÓNG ẦM ẦM

Những con sóng ầm ầm
Vẫn xô bờ ào ạt
Sóng dập và sóng rung
Và hôn lên bãi cát.

Biết bao con sóng lớn
Vẫn ào ạt xô bờ
Nhưng cuối cùng thì sóng
Giúp ích gì cho ta?

Es ziehen die brausenden Wellen

Es ziehen die brausenden Wellen
Wohl nach dem Strand;
Sie schwellen und zerschellen
Wohl auf dem Sand.

Sie kommen groß und kräftig,
Ohn’ Unterlaß;
Sie werden endlich heftig –
Was hilft uns das?


166.TÔI NGỒI TRÊN MỎM ĐÁ NHÔ RA BIỂN

Tôi ngồi trên mỏm đá nhô ra biển
Và mơ màng với mơ ước của tôi
Có gió thổi, hải âu đùa trên sóng
Và lang thang những con sóng bọt ngời.

Tôi đã từng yêu biết bao cô gái
Và từng yêu bè bạn – những chàng trai
Giờ họ ở đâu? Chỉ còn gió thổi
Và lang thang những con sóng bọt ngời.

Es ragt in’s Meer der Runenstein

Es ragt in’s Meer der Runenstein,
Da sitz’ ich mit meinen Träumen.
Es pfeift der Wind, die Möven schreyn,
Die Wellen, die wandern und schäumen.

Ich habe geliebt manch schönes Kind
Und manchen guten Gesellen –
Wo sind sie hin? Es pfeift der Wind,
Es schäumen und wandern die Wellen.


167.BIỂN TRONG GIỜ HOÀNG HÔN

Biển trong giờ hoàng hôn
Ánh mặt trời vàng óng
Khi tôi chết, anh em
Hãy quăng tôi xuống biển.

Tôi đã từng yêu biển
Yêu con sóng nhẹ nhàng
Con tim tôi dịu dàng
Từng kết thân với biển.

Das Meer erstralt im Sonnenschein

Das Meer erstralt im Sonnenschein,
Als ob es golden wär.
Ihr Brüder, wenn ich sterbe,
Versenkt mich in das Meer.

Hab’ immer das Meer so lieb gehabt,
Es hat mit sanfter Fluth
So oft mein Herz gekühlet;
Wir waren einander gut.


=(Angelique)

168.EM ĐI NHANH TRƯỚC MẶT

Em đi nhanh trước mặt
Rồi ngoảnh lại nhìn anh
Vẻ mặt em kiêu căng
Ánh nhìn đầy khinh suất.

Chiếc áo em màu trắng
Anh tìm kiếm mà chi!
Đôi bàn chân bé bỏng
Tìm dấu vết làm gì!

Giờ tính tình đã đổi
Em tĩnh lặng nhẹ nhàng
Dịu dàng không chịu nổi
Thậm chí còn yêu anh.

Wie rasch du auch vorüberschrittest

Wie rasch du auch vorüberschrittest
Noch einmal schautest du zurück,
Der Mund, wie fragend, kühngeöffnet,
Stürmischer Hochmuth in dem Blick.

O, daß ich nie zu fassen suchte
Das weiße flüchtige Gewand!
Die holde Spur der kleinen Füße,
O, daß ich nie sie wiederfand!

Verschwunden ist ja deine Wildheit,
Bist wie die Andern zahm und klar,
Und sanft und unerträglich gütig,
Und ach! nun liebst du mich sogar!


169.EM THÂN YÊU ƠI

Em thân yêu ơi anh chẳng hề tin
Vào những lời từ bờ môi nghiêm khắc
Và anh cũng chẳng tin gì đạo đức
Của đôi mắt to ngơ ngác đen huyền.

Vứt bỏ hết đi em – anh yêu em
Vứt bỏ hết đi những lời giả dối
Hãy hôn anh bằng con tim sôi nổi –
Con tim chân thành, em có hiểu anh?

Nimmer glaub ich, junge Schoene

Nimmer glaub ich, junge Schoene,
Was die sproede Lippe spricht;
Solche grosse schwarze Augen
Solche hat die Tugend nicht.

Diese braungestreifte Luege,
Streif sie ab; ich liebe dich.
Lass dein weisses Herz mich kuessen –
Weisses Herz, verstehst du mich?


170.TÔI THÍCH BỊT MẮT NÀNG

Tôi thích bịt mắt nàng
Mỗi khi hôn lên miệng
Còn em luôn cố gắng
Để tìm hiểu nguyên nhân.

Suốt từ đêm tới sáng
Nàng vẫn hỏi không ngừng:
“Sao anh bịt mắt em
Mỗi khi hôn lên miệng?”

Rõ là chỉ lắm chuyện
Ai mà biết nguyên nhân –
Tôi lại bịt mắt nàng
Và lại hôn lên miệng.

Ich halte ihr die Augen zu

Ich halte ihr die Augen zu
Und küß sie auf den Mund;
Nun läßt sie mich nicht mehr in Ruh,
Sie fragt mich um den Grund.

Von Abend spät bis Morgens fruh,
Sie fragt zu jeder Stund:
Was hältst du mir die Augen zu,
Wenn du mir küßt den Mund?

Ich sag ihr nicht, weshalb ichs tu,
Weiß selber nicht den Grund -
Ich halte ihr die Augen zu
Und küß sie auf den Mund.


171.KHI TRONG VÒNG TAY ÂU YẾM CỦA EM

Khi trong vòng tay âu yếm của em
Cùng những nụ hôn làm anh ngây ngất
Anh xin em đừng nói về nước Đức
Anh không thích – điều đó có nguyên nhân.

Hãy để anh với nước Đức được yên
Đừng bận tâm với vô vàn câu hỏi
Về nhà cửa, về gia phong, dòng dõi
Anh không thích – điều đó có nguyên nhân.

Những cây sồi xanh, những đôi mắt xanh
Của đàn bà Đức vẫn hằng mong mỏi
Về Hy vọng, Đức tin và Tình ái
Anh không thích – điều đó có nguyên nhân.

Wenn ich, beseligt von schönen Küssen

Wenn ich, beseligt von schönen Küssen,
In deinen Armen mich wohl befinde,
Dann mußt du mir nie von Deutschland reden; -
Ich kanns nicht vertragen - es hat seine Gründe.

Ich bitte dich, laß mich mit Deutschland in Frieden!
Du mußt mich nicht plagen mit ewigen Fragen
Nach Heimat, Sippschaft und Lebensverhältnis; -
Es hat seine Gründe - ich kanns nicht vertragen.

Die Eichen sind grün, und blau sind die Augen
Der deutschen Frauen, sie schmachten gelinde
Und seufzen von Liebe, Hoffnung und Glauben; -
Ich kanns nicht vertragen - es hat seine Gründe.


172.KHI ĐÔI MẮT CỦA TÔI

Khi đôi mắt của tôi
Ngắm bao nàng xinh xắn
Nghĩa là tôi đụng chạm
Đến kho báu của người.

Có thể, lại có ai
Đi trên đường phố nọ
Cũng nhìn vào cửa sổ
Xem kho báu của tôi.

Đấy là thói người đời!
Chúng con xin Đức Chúa!
Ban phát cho tất cả
Hạnh phúc và niềm vui!

Während ich nach andrer Leute

Während ich nach andrer Leute,
Andrer Leute Schätze spähe,
Und vor fremden Liebesthüren
Schmachtend auf- und niedergehe:

Treibt’s vielleicht die andren Leute
Hin und her an andrem Platze,
Und vor meinen eignen Fenstern
Aeugeln sie mit meinem Schatze.

Das ist menschlich! Gott im Himmel
Schütze uns auf allen Wegen!
Gott im Himmel geb’ uns Allen,
Geb’ uns Allen Glück und Segen!


173.QUẢ THỰC EM LÀ LÝ TƯỞNG CỦA ANH

Quả thực em là lý tưởng của anh
Anh vẫn thường xuyên ôm em đấy chứ
Còn nụ hôn của anh thì vô số
Nhưng mà hôm nay anh bận quá chừng.

Hãy đến ngày mai, lúc hai, ba giờ
Và em nhớ mặc áo quần mới nhé
Chúng mình sẽ yêu nhau, và sau đó
Anh sẽ dẫn em vào quán ăn trưa.

Và nếu như có vé người ta đưa
Thì anh sẽ đưa em đi xem kịch
Giờ đang có vở diễn “Quỉ Robert”
Anh dẫn em đến nhà hát Opera.

Đấy là một vở diễn đầy ma thuật
Sự ham mê của quỉ với tình yêu
Phần nhạc do Meyerbeer soạn ra
Nhưng phần lời của Scribe dở ẹc.
_____________
*Giacomo Meyerbeer (1791 – 1864) – nhạc sĩ Đức gốc Do Thái; Augustin Eugène Scribe (1791 – 1861) – nhà viết kịch Pháp.

Ja freilich, du bist mein Ideal

Ja freilich, du bist mein Ideal,
Habs dir ja oft bekräftigt
Mit Küssen und Eiden sonder Zahl;
Doch heute bin ich beschäftigt.

Komm morgen zwischen zwei und drei,
Dann sollen neue Flammen
Bewähren meine Schwärmerei;
Wir essen nachher zusammen.

Wenn ich Billette bekommen kann,
Bin ich sogar kapabel,
Dich in die Oper zu führen alsdann:
Man gibt Robert-le-Diable.

Es ist ein großes Zauberstück
Voll Teufelslust und Liebe;
Von Meyerbeer ist die Musik,
Der schlechte Text von Scribe.


174.ĐỪNG ĐUỔI ANH

Đừng đuổi anh, mặc dù
Đam mê không còn cháy
Chịu đựng vài tháng nữa
Rồi anh tự ra đi.

Nếu không là người tình
Thì hãy là người bạn
Từ tình yêu ta chuyển
Sang tình bạn nghe em.

Schaff mich nicht ab, wenn auch den Durst

Schaff mich nicht ab, wenn auch den Durst
Gelöscht der holde Trunk;
Behalt mich noch ein Vierteljahr,
Dann hab auch ich genung.

Kannst du nicht mehr Geliebte sein,
Sei Freundin mir sodann;
Hat man die Liebe durchgeliebt,
Fängt man die Freundschaft an.


175.MÙA HỘI TÌNH KẾT THÚC

Mùa hội tình kết thúc
Tâm hồn ta đắm say
Tất cả đã qua rồi
Giờ ta ngồi ngáp vặt.

Chén tình ta uống cạn
Rượu say từng rót đầy
Mê mẩn và đắm say
Chén tình ta uống cạn.

Đàn giờ đây im tiếng
Đàn từng gọi mời ta
Vào điệu nhảy si mê
Đàn giờ đây im tiếng

Đèn giờ đây tắt ngóm
Từng chiếu sáng cho ta
Mặt nạ đủ sắc màu
Đèn giờ đây tắt ngóm.

Ngày mai là lễ lớn
Tôi vẽ lên trán em
Thập ác và nói rằng:
“Ngươi là bụi, bụi bặm”.
___________
*Fasching là mùa lễ hội, thường diễn ra vào trước mùa Chay và chấm dứt vào ngày Thứ tư Lễ Tro.

Dieser Liebe toller Fasching

Dieser Liebe toller Fasching,
Dieser Taumel unsrer Herzen,
Geht zu Ende, und ernüchtert
Gähnen wir einander an!

Ausgetrunken ist der Kelch,
Der mit Sinnenrausch gefüllt war,
Schäumend, lodernd, bis am Rande;
Ausgetrunken ist der Kelch.

Es verstummen auch die Geigen,
Die zum Tanze mächtig spielten,
Zu dem Tanz der Leidenschaft;
Auch die Geigen, sie verstummen.

Es erlöschen auch die Lampen,
Die das wilde Licht ergossen
Auf den bunten Mummenschanz,
Auch die Lampen, sie erlöschen.

Morgen kommt der Aschenmittwoch,
Und ich zeichne deine Stirne
Mit dem Aschenkreuz und spreche:
Weib, bedenke, daß du Staub bist.


176.ĐÃ XUẤT HIỆN RẤT NHANH

Đã xuất hiện rất nhanh
Từ một điều cảm nhận
Đam mê không giới hạn
Đã kết nối dịu dàng.

Càng ngày càng thấy rõ
Rằng tôi đã mềm lòng
Rằng tôi đã yêu em
Không nghi ngờ gì nữa.

Tâm hồn em rộng mở -
Thì mới bước đầu thôi
Nhưng vẻ đẹp bên ngoài
Không nghi ngờ gì nữa.

Má hồng, đôi môi đỏ
Đắm đuối nụ cười em
Và sống mũi, hàm răng
Tôi càng yêu hơn nữa!

Wie entwickeln sich doch schnelle

Wie entwickeln sich doch schnelle,
Aus der flüchtigsten Empfindung,
Leidenschaften ohne Grenzen
Und die zärtlichste Verbindung!

Täglich wächst zu dieser Dame
Meiner Herzens tiefe Neigung,
Und daß ich in sie verliebt sei,
Wird mir fast zur Überzeugung.

Schön ist ihre Seele. Freilich,
Das ist immer eine Meinung;
Sichrer bin ich von der Schönheit
Ihrer äußeren Erscheinung.

Diese Hüften! Diese Stirne!
Diese Nase! Die Entfaltung
Dieses Lächelns auf den Lippen!
Und wie gut ist ihre Haltung!


177.EM YÊU ƠI ĐỪNG SỢ

Em yêu ơi đừng sợ
Và khỏi cần lo âu
Không ai bắt ta đâu
Cửa ngoài anh đã khóa.

Cơn gió dù giận dữ
Nhà không đổ được đâu
Anh tắt ngọn đèn dầu
Để khỏi lo bà hỏa.

Anh đưa bàn tay ấm
Vòng quanh cổ của em
Bởi vì chẳng có khăn
Anh sợ em cảm lạnh.

Fürchte nichts, geliebte Seele

Fürchte nichts, geliebte Seele,
Uebersicher bist du hier;
Fürchte nicht, daß man uns stehle,
Ich verriegle schon die Thür.

Wie der Wind auch wüthend wehe,
Er gefährdet nicht das Haus;
Daß auch nicht ein Brand entstehe,
Lösch’ ich unsre Lampe aus.

Ach, erlaube daß ich winde
Meinen Arm um deinen Hals;
Man erkältet sich geschwinde
In Ermanglung eines Schawls.


=(Diana)

178.ĐÂY XÁC THÂN PHỤ NỮ

Đây xác thân phụ nữ
Vẻ nữ tính, dịu dàng
Không nước mắt, cãi cọ
Nàng đồng ý chung tình.

Tôi kiềm chế thì hơn
Còn nếu tôi hành động
Có thể rồi hối hận
Có thể sẽ đau lòng.

Chao ôi cổ, đôi vú
Chưa từng thấy cao hơn
Xin gửi Chúa linh hồn
Trước khi làm chủ nó.

Diese schönen Gliedermassen

Diese schönen Gliedermassen
Colossaler Weiblichkeit
Sind jetzt, ohne Widerstreit,
Meinen Wünschen überlassen.

Wär’ ich, leidenschaftentzügelt,
Eigenkräftig ihr genaht,
Ich bereu’te solche That!
Ja, sie hätte mich geprügelt.

Welcher Busen, Hals und Kehle!
(Höher seh’ ich nicht genau.)
Eh’ ich ihr mich anvertrau’,
Gott empfehl’ ich meine Seele.


=(Hortense)

179.NGÀY XƯA TÔI TIN RẰNG

Ngày xưa tôi tin rằng
Khi tôi hôn vợ mình
Và bao nhiêu người khác
Là do số phận mình.

Tôi cứ hôn và hôn
Nghiêm túc và gắng công
Cho rằng mình thực hiện
Cái nghĩa vụ thiêng liêng.

Còn bây giờ hiểu rằng
Chỉ sắc sắc không không
Chẳng còn tin gì cả
Chỉ đơn giản là hôn.

Ehmals glaubt ich, alle Küsse

Ehmals glaubt ich, alle Küsse,
Die ein Weib uns gibt und nimmt,
Seien uns, durch Schicksalsschlüsse,
Schon urzeitlich vorbestimmt.

Küsse nahm ich, und ich küßte
So mit Ernst in jener Zeit,
Als ob ich erfüllen müßte
Taten der Notwendigkeit.

Jetzo weiß ich, überflüssig,
Wie so manches, ist der Kuß,
Und mit leichtern Sinnen küß ich,
Glaubenlos im Überfluß.


180.TRÊN MỘT GÓC PHỐ NỌ

Trên một góc phố nọ
Chúng tôi đứng cả giờ
Và cùng nhau chuyện trò
Về chuyện riêng hai đứa.

Nhắc lại cả trăm lần
Rằng yêu nhau muôn thuở
Trên một góc phố nọ
Chúng tôi vẫn đứng yên.

Thần cơ hội đến gần
Nhanh nhẹn và vui vẻ
Thấy chúng tôi như thế
Liền vỗ cánh bay nhanh.

Wir standen an der Straßeneck

Wir standen an der Straßeneck
Wohl über eine Stunde;
Wir sprachen voller Zärtlichkeit
Von unsrem Seelenbunde.

Wir sagten uns vielhundertmal,
Daß wir einander lieben;
Wir standen an der Straßeneck,
Und sind da stehngeblieben.

Die Göttin der Gelegenheit,
Wie 'n Zöfchen, flink und heiter,
Kam sie vorbei und sah uns stehn,
Und lachend ging sie weiter.


181.BAN NGÀY ANH MƠ ƯỚC

Ban ngày anh mơ ước
Và mơ ước hằng đêm
Mãi ngự trong lòng anh
Tiếng cười anh quí nhất.

Ở Montmorencys, ngày đó
Em ngồi trên con lừa
Bỗng nhiên em lộn nhào
Rơi vào cây kế sữa.

Con lừa vẫn đứng yên
Gặm lá cây kế sữa –
Tiếng cười em quí giá
Anh không bao giờ quên.

In meinen Tagesträumen

In meinen Tagesträumen,
In meinem nächtlichen Wachen,
Stets klingt mir in der Seele
Dein allerliebstes Lachen.

Denkst du noch Montmorencys,
Wie du auf dem Esel rittest,
Und von dem hohen Sattel
Hinab in die Disteln glittest?

Der Esel blieb ruhig stehen,
Fing an, die Disteln zu fressen -
Dein allerliebstes Lachen
Werde ich nie vergessen.


182.CÂY TÁO ĐỨNG TRONG VƯỜN

(Một giọng nói:)

Cây táo đứng trong vườn
Quả táo treo trên cành
Quả táo kia chín mọng
Mắt con rắn nhìn em
Đôi mắt nó long lanh
Ngọt ngào và sống động
Và con rắn rít lên
Như một điều may mắn.

(Giọng nói khác:)

Đây trái ngọt của đời
Ngon lắm, hãy thử coi
Kẻo không thì phí uổng
Cuộc đời ngươi đã sống
Con bồ câu của tôi
Hãy thử một lần thôi
Hãy tin và thực hiện
Lời khuyên của gì tôi.

Steht ein Baum im schönen Garten

(Sie spricht:)

Steht ein Baum im schönen Garten
Und ein Apfel hängt daran,
Und es ringelt sich am Aste
Eine Schlange, und ich kann
Von den süßen Schlangenaugen
Nimmer wenden meinen Blick,
Und das zischelt so verheißend,
Und das lockt wie holdes Glück!

(Die Andre spricht:)

Dieses ist die Frucht des Lebens,
Koste ihre Süßigkeit,
Daß du nicht so ganz vergebens
Lebtest deine Lebenszeit!
Schönes Kindchen, fromme Taube,
Kost einmal und zittre nicht -
Folge meinem Rat und glaube,
Was die kluge Muhme spricht.


183.MỘT GIAI ĐIỆU TÔI CHƠI

Một giai điệu tôi chơi
Trên đàn, nghe mới hẳn
Dù lời cũ xưa rồi:
“Đàn bà là cay đắng”*.

Không trung thành với bạn
Không chung thủy với chồng
Ngải đắng giọt cuối cùng
Trong chén tình vàng óng.

Lời nguyền của con rắn
Đã chép trong sách xưa
Từng báo trước cho ta
Những lời trong Kinh Thánh.

Con rắn trườn bằng bụng
Tiếng còn trong bụi cây.
Lời ngọt từ bờ môi
Với tiếng này rất giống.

Tối tăm và lạnh lẽo
Quạ đen che mặt trời
Ham muốn và tình yêu
Muôn đời nằm trong mộ.
_____________
*Đàn bà cay đắng hơn là cái chết – lời của Solomon trong quyển “Truyền Đạo” của Kinh Cựu Ước.

Neue Melodien spiel ich

Neue Melodien spiel ich
Auf der neugestimmten Zither.
Alt ist der Text! Es sind die Worte
Salomos: Das Weib ist bitter.

Ungetreu ist sie dem Freunde,
Wie sie treulos dem Gemahle!
Wermut sind die letzten Tropfen
In der Liebe Goldpokale.

Also wahr ist jene Sage
Von dem dunklen Sündenfluche,
Den die Schlange dir bereitet,
Wie es steht im alten Buche?

Kriechend auf dem Bauch, die Schlange,
Lauscht sie noch in allen Büschen,
Kost mit dir noch jetzt wie weiland,
Und du hörst sie gerne zischen.

Ach, es wird so kalt und dunkel!
Um die Sonne flattern Raben,
Und sie krächzen. Lust und Liebe
Ist auf lange jetzt begraben.


184.HẠNH PHÚC EM BAN TẶNG

Hạnh phúc em ban tặng
Lừa dối tôi một hồi
Em như giấc mơ sai
Trong tim này thơ thẩn.

Nhưng vừa sáng, rất mau
Màn sương kia biến mất
Mọi chuyện đã kết thúc
Khi chưa kịp bắt đầu.

Nicht lange täuschte mich das Glück

Nicht lange täuschte mich das Glück,
Das du mir zugelogen,
Dein Bild ist wie ein falscher Traum
Mir durch das Herz gezogen.

Der Morgen kam, die Sonne schien,
Der Nebel ist zerronnen;
Geendigt hatten wir schon längst,
Eh wir noch kaum begonnen.


=(Clarisse)

185.LỜI ĐỀ NGHỊ CỦA ANH

Lời đề nghị của anh
Em sợ nên từ chối
Anh hỏi: em chối hả?
Thì em vội khóc lên.

Hiếm khi tôi cầu xin
Nhưng bây giờ xin Chúa
Hãy làm khô dòng lệ
Và soi sáng tâm nàng.

Meinen schönsten Liebesantrag

Meinen schönsten Liebesantrag
Suchst du ängstlich zu verneinen;
Frag’ ich dann: ob das ein Korb sey?
Fängst du plötzlich an zu weinen.

Selten bet’ ich, drum erhör’ mich,
Lieber Gott! Hilf dieser Dirne,
Trockne ihre süßen Thränen
Und erleuchte ihr Gehirne.


186.DÙ EM Ở ĐÂU

Dù em ở đâu thì anh vẫn thế
Ở khắp nơi, anh vẫn gặp hàng ngày
Em càng muốn xa anh, càng khó dễ
Anh lại càng yêu em đến mê say.

Cơn giận của em làm anh dễ chịu
Trước mặt em anh luống cuống, ngại ngùng.
Nếu em muốn cho anh thôi quấy nhiễu
Hãy nhớ rằng em cần phải yêu anh.

Überall, wo du auch wandelst

Überall, wo du auch wandelst,
Schaust du mich zu allen Stunden,
Und je mehr du mich mißhandelst,
Treuer bleib ich dir verbunden.

Denn mich fesselt holde Bosheit,
Wie mich Güte stets vertrieben;
Willst du sicher meiner los sein,
Mußt du dich in mich verlieben.


187.LẠY QUỈ BẮT MẸ EM

Lạy quỉ bắt mẹ em
Và cha em bắt nốt
Vì họ, trong nhà hát
Anh chẳng nhìn được em.

Họ ngồi ở đầu hàng
Làm anh không thấy được
Vì họ che khuất hết
Đứa con yêu của mình.

Họ ngồi xem cuộc tình
Diễn ra đầy bi kịch
Hai người yêu rồi chết
Họ vỗ tay rầm rầm.

Hol der Teufel deine Mutter

Hol der Teufel deine Mutter,
Hol der Teufel deinen Vater,
Die so grausam mich verhindert,
Dich zu schauen im Theater.

Denn sie saßen da und gaben,
Breitgeputzt, nur seltne Lücken,
Dich im Hintergrund der Loge,
Süßes Liebchen, zu erblicken.

Und sie saßen da und schauten
Zweier Liebenden Verderben,
Und sie klatschten großen Beifall,
Als sie beide sahen sterben.


188.ĐÃ MUỘN RỒI, NỤ CƯỜI KIA ĐÃ MUỘN

Đã muộn rồi, nụ cười kia đã muộn
Tiếng thổn thức lòng cũng muộn rồi em
Cảm xúc của tôi giờ đây chết hẳn
Điều mà em ngày ấy đã coi thường.

Tình yêu của em cũng đã muộn màng
Tình đã chết trong tim này em ạ
Và cả ánh nhìn cháy bỏng của em
Cũng như ánh mặt trời trên mộ chí.

*
Tôi chỉ muốn biết rằng: khi ta chết
Linh hồn của ta sẽ đi về đâu?
Ngọn lửa kia đã tắt ở chốn nào?
Và sẽ đi về đâu cơn gió hát?

Es kommt zu spät, was du mir lächelst

Es kommt zu spät, was du mir lächelst,
Was du mir seufzest, kommt zu spät!
Längst sind gestorben die Gefühle,
Die du so grausam einst verschmäht.

Zu spät kommt deine Gegenliebe!
Es fallen auf mein Herz herab
All deine heißen Liebesblicke,
Wie Sonnenstrahlen auf ein Grab.

*
Nur wissen möcht ich: wenn wir sterben,
Wohin dann unsre Seele geht?
Wo ist das Feuer, das erloschen?
Wo ist der Wind, der schon verweht?


=(Yolante und Marie)

189.NHỮNG PHỤ NỮ NÀY HIỂU

Những phụ nữ này hiểu
Về tài thơ của tôi
Cho nên họ đã mời
Tôi và tài thơ nữa.

Món xúp thật tuyệt diệu
Rượu vang cũng rất ngon
Món gà rán tuyệt trần
Và món thỏ áp chảo.

Cùng trò chuyện, và rồi
Tôi nói lời đa tạ
Cám ơn vì danh dự
Mà họ dành cho tôi.

Diese Damen, sie verstehen

Diese Damen, sie verstehen,
Wie man Dichter ehren muß:
Gaben mir ein Mittagessen,
Mir und meinem Genius.

Ach! die Suppe war vortrefflich,
Und der Wein hat mich erquickt,
Das Geflügel, das war göttlich,
Und der Hase war gespickt.

Sprachen, glaub ich, von der Dichtkunst,
Und ich wurde endlich satt;
Und ich dankte für die Ehre,
Die man mir erwiesen hat.


190.NÊN YÊU AI BÂY GIỜ

Nên yêu ai bây giờ, không biết nữa
Bởi vì rằng phải chọn một trong hai
Mẹ – là người phụ nữ rất quyến rũ
Con gái – lại là cô bé tuyệt vời.

Bàn tay con trắng ngần, chưa từng trải
Biết làm sao nói hết được bằng lời
Nhưng ánh mắt người mẹ đầy khêu gợi
Vẻ dịu dàng vẫn cuốn hút lòng tôi.

Con tim tôi giống như một con nai
Đang ngơ ngác đứng giữa hai đống cỏ
Đống cỏ nào ngon, thích hợp với tôi
Cứ phân vân, không dễ dàng chọn lựa.

In welche soll ich mich verlieben

In welche soll ich mich verlieben,
Da beide liebenswürdig sind?
Ein schönes Weib ist noch die Mutter,
Die Tochter ist ein schönes Kind.

Die weißen, unerfahrnen Glieder,
Sie sind so rührend anzusehn!
Doch reizend sind geniale Augen,
Die unsre Zärtlichkeit verstehn.

Es gleicht mein Herz dem grauen Freunde,
Der zwischen zwey Gebündel Heu
Nachsinnlich grübelt, welch' von beiden
Das allerbeste Futter sey.


191.RƯỢU UỐNG HẾT TRƠN

Rượu uống hết trơn, bữa ăn ngon miệng
Hai cô em đôi má đã ửng hồng
Vẻ bạo dạn, áo ngực thì trễ xuống
Cả hai người vì rượu đã lâng lâng.

Vai trắng ngần, bộ ngực đẹp vô cùng
Con tim tôi run lên vì sợ hãi
Cả hai cùng cười vang và sau đấy
Nhảy lên giường rồi chui vội vào chăn.

Tôi đang định đưa tay lên kéo rèm
Thì đã nghe vang khò khè tiếng ngáy
Tôi ngơ ngác giống như thằng ngốc vậy
Có vẻ như đấy không phải giường mình.

Die Flaschen sind leer, das Frühstück ist gut

Die Flaschen sind leer, das Frühstück ist gut,
Die Dämchen sind rosig erhitzet;
Sie lüften das Mieder mit Übermut,
Ich glaube, sie sind bespitzet.

Die Schulter wie weiß, die Brüstchen wie nett!
Mein Herz erbebet vor Schrecken.
Nun werfen sie lachend sich aufs Bett,
Und hüllen sich ein mit den Decken.

Sie ziehen nun gar die Gardinen vor,
Und schnarchen am End um die Wette.
Da steh ich im Zimmer ein einsamer Tor,
Betrachte verlegen das Bette.


192.TUỔI TRẺ ĐÃ KHÔNG CÒN

Tuổi trẻ đã không còn
Tôi giờ bạo dạn hơn
Bàn tay tôi can đảm
Ve vuốt những eo thon.

Có cô từng giật mình
Định nổi cơn tam bành
Trước những lời mật ngọt
Dần dà cũng xuôi êm.

Nhưng điều quan trọng hơn
Là giờ đây không còn
Vẻ hồn nhiên, dại dột
Ngơ ngác của cừu non.

Jugend, die mir täglich schwindet

Jugend, die mir täglich schwindet,
Wird durch raschen Muth ersetzt,
Und mein kühn’rer Arm umwindet
Noch viel schlankre Hüften jetzt.

That auch manche sehr erschrocken,
Hat sie doch sich bald gefügt;
Holder Zorn, verschämtes Stocken
Wird von Schmeichelen besiegt.

Doch, wenn ich den Sieg genieße,
Fehlt das Beste mir dabey.
Ist es die verschwundne, süße,
Blöde Jugendeseley?


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét