164.EM CƯ XỬ VỚI
ANH CHẲNG RA GÌ
Em cư xử với anh chẳng
ra gì
Thì người đời không
một ai biết đến
Nhưng rồi đây khi
ngồi bên bờ biển
Những nỗi niềm anh
sẽ kể cá nghe.
Cái tên em anh
không hề bôi bẩn
Nhưng điều này chỉ ở
chốn đất bằng
Còn ngoài kia, giữa
đại dương mênh mông
Sẽ có điều làm cho
em hổ thẹn.
Wie
schändlich du gehandelt
Wie schändlich du
gehandelt,
Ich hab es den
Menschen verhehlet,
Und bin
hinausgefahren aufs Meer,
Und hab es den
Fischen erzählet.
Ich laß dir den
guten Namen
Nur auf dem festen Lande;
Aber im ganzen
Ozean
Weiß man von deiner
Schande.
165.NHỮNG CON SÓNG ẦM
ẦM
Những con sóng ầm ầm
Vẫn xô bờ ào ạt
Sóng dập và sóng
rung
Và hôn lên bãi cát.
Biết bao con sóng lớn
Vẫn ào ạt xô bờ
Nhưng cuối cùng thì
sóng
Giúp ích gì cho ta?
Es ziehen
die brausenden Wellen
Es ziehen die
brausenden Wellen
Wohl nach dem
Strand;
Sie schwellen und
zerschellen
Wohl auf dem Sand.
Sie kommen groß und
kräftig,
Ohn’ Unterlaß;
Sie werden endlich
heftig –
Was hilft uns das?
166.TÔI NGỒI TRÊN MỎM
ĐÁ NHÔ RA BIỂN
Tôi ngồi trên mỏm
đá nhô ra biển
Và mơ màng với mơ ước
của tôi
Có gió thổi, hải âu
đùa trên sóng
Và lang thang những
con sóng bọt ngời.
Tôi đã từng yêu biết
bao cô gái
Và từng yêu bè bạn
– những chàng trai
Giờ họ ở đâu? Chỉ
còn gió thổi
Và lang thang những
con sóng bọt ngời.
Es ragt
in’s Meer der Runenstein
Es ragt in’s Meer
der Runenstein,
Da sitz’ ich mit
meinen Träumen.
Es pfeift der Wind,
die Möven schreyn,
Die Wellen, die
wandern und schäumen.
Ich habe geliebt
manch schönes Kind
Und manchen guten
Gesellen –
Wo sind sie hin? Es
pfeift der Wind,
Es schäumen und
wandern die Wellen.
167.BIỂN TRONG GIỜ
HOÀNG HÔN
Biển trong giờ
hoàng hôn
Ánh mặt trời vàng
óng
Khi tôi chết, anh
em
Hãy quăng tôi xuống
biển.
Tôi đã từng yêu biển
Yêu con sóng nhẹ
nhàng
Con tim tôi dịu
dàng
Từng kết thân với
biển.
Das
Meer erstralt im Sonnenschein
Das Meer erstralt
im Sonnenschein,
Als ob es golden
wär.
Ihr Brüder, wenn
ich sterbe,
Versenkt mich in
das Meer.
Hab’ immer das Meer
so lieb gehabt,
Es hat mit sanfter
Fluth
So oft mein Herz
gekühlet;
Wir waren einander
gut.
=(Angelique)
168.EM ĐI NHANH TRƯỚC
MẶT
Em đi nhanh trước mặt
Rồi ngoảnh lại nhìn
anh
Vẻ mặt em kiêu căng
Ánh nhìn đầy khinh
suất.
Chiếc áo em màu trắng
Anh tìm kiếm mà
chi!
Đôi bàn chân bé bỏng
Tìm dấu vết làm gì!
Giờ tính tình đã đổi
Em tĩnh lặng nhẹ
nhàng
Dịu dàng không chịu
nổi
Thậm chí còn yêu
anh.
Wie
rasch du auch vorüberschrittest
Wie rasch du auch
vorüberschrittest
Noch einmal
schautest du zurück,
Der Mund, wie
fragend, kühngeöffnet,
Stürmischer
Hochmuth in dem Blick.
O, daß ich nie zu
fassen suchte
Das weiße flüchtige
Gewand!
Die holde Spur der
kleinen Füße,
O, daß ich nie sie
wiederfand!
Verschwunden ist ja
deine Wildheit,
Bist wie die Andern
zahm und klar,
Und sanft und
unerträglich gütig,
Und ach! nun liebst
du mich sogar!
169.EM THÂN YÊU ƠI
Em thân yêu ơi anh
chẳng hề tin
Vào những lời từ bờ
môi nghiêm khắc
Và anh cũng chẳng
tin gì đạo đức
Của đôi mắt to ngơ
ngác đen huyền.
Vứt bỏ hết đi em –
anh yêu em
Vứt bỏ hết đi những
lời giả dối
Hãy hôn anh bằng
con tim sôi nổi –
Con tim chân thành,
em có hiểu anh?
Nimmer
glaub ich, junge Schoene
Nimmer glaub ich,
junge Schoene,
Was die sproede
Lippe spricht;
Solche grosse
schwarze Augen
Solche hat die
Tugend nicht.
Diese
braungestreifte Luege,
Streif sie ab; ich
liebe dich.
Lass dein weisses
Herz mich kuessen –
Weisses Herz,
verstehst du mich?
170.TÔI THÍCH BỊT MẮT
NÀNG
Tôi thích bịt mắt
nàng
Mỗi khi hôn lên miệng
Còn em luôn cố gắng
Để tìm hiểu nguyên
nhân.
Suốt từ đêm tới
sáng
Nàng vẫn hỏi không
ngừng:
“Sao anh bịt mắt em
Mỗi khi hôn lên miệng?”
Rõ là chỉ lắm chuyện
Ai mà biết nguyên
nhân –
Tôi lại bịt mắt
nàng
Và lại hôn lên miệng.
Ich
halte ihr die Augen zu
Ich halte ihr die
Augen zu
Und küß sie auf den
Mund;
Nun läßt sie mich
nicht mehr in Ruh,
Sie fragt mich um
den Grund.
Von Abend spät bis
Morgens fruh,
Sie fragt zu jeder
Stund:
Was hältst du mir
die Augen zu,
Wenn du mir küßt
den Mund?
Ich sag ihr nicht,
weshalb ichs tu,
Weiß selber nicht
den Grund -
Ich halte ihr die
Augen zu
Und küß sie auf den
Mund.
171.KHI TRONG VÒNG
TAY ÂU YẾM CỦA EM
Khi trong vòng tay
âu yếm của em
Cùng những nụ hôn
làm anh ngây ngất
Anh xin em đừng nói
về nước Đức
Anh không thích –
điều đó có nguyên nhân.
Hãy để anh với nước
Đức được yên
Đừng bận tâm với vô
vàn câu hỏi
Về nhà cửa, về gia
phong, dòng dõi
Anh không thích –
điều đó có nguyên nhân.
Những cây sồi xanh,
những đôi mắt xanh
Của đàn bà Đức vẫn
hằng mong mỏi
Về Hy vọng, Đức tin
và Tình ái
Anh không thích –
điều đó có nguyên nhân.
Wenn
ich, beseligt von schönen Küssen
Wenn ich, beseligt
von schönen Küssen,
In deinen Armen
mich wohl befinde,
Dann mußt du mir
nie von Deutschland reden; -
Ich kanns nicht
vertragen - es hat seine Gründe.
Ich bitte dich, laß
mich mit Deutschland in Frieden!
Du mußt mich nicht
plagen mit ewigen Fragen
Nach Heimat,
Sippschaft und Lebensverhältnis; -
Es hat seine Gründe
- ich kanns nicht vertragen.
Die Eichen sind
grün, und blau sind die Augen
Der deutschen
Frauen, sie schmachten gelinde
Und seufzen von
Liebe, Hoffnung und Glauben; -
Ich kanns nicht
vertragen - es hat seine Gründe.
172.KHI ĐÔI MẮT CỦA
TÔI
Khi đôi mắt của tôi
Ngắm bao nàng xinh
xắn
Nghĩa là tôi đụng
chạm
Đến kho báu của người.
Có thể, lại có ai
Đi trên đường phố nọ
Cũng nhìn vào cửa sổ
Xem kho báu của
tôi.
Đấy là thói người đời!
Chúng con xin Đức
Chúa!
Ban phát cho tất cả
Hạnh phúc và niềm
vui!
Während
ich nach andrer Leute
Während ich nach
andrer Leute,
Andrer Leute
Schätze spähe,
Und vor fremden
Liebesthüren
Schmachtend auf-
und niedergehe:
Treibt’s vielleicht
die andren Leute
Hin und her an
andrem Platze,
Und vor meinen
eignen Fenstern
Aeugeln sie mit
meinem Schatze.
Das ist menschlich!
Gott im Himmel
Schütze uns auf
allen Wegen!
Gott im Himmel geb’
uns Allen,
Geb’ uns Allen
Glück und Segen!
173.QUẢ THỰC EM LÀ
LÝ TƯỞNG CỦA ANH
Quả thực em là lý
tưởng của anh
Anh vẫn thường
xuyên ôm em đấy chứ
Còn nụ hôn của anh
thì vô số
Nhưng mà hôm nay
anh bận quá chừng.
Hãy đến ngày mai,
lúc hai, ba giờ
Và em nhớ mặc áo quần
mới nhé
Chúng mình sẽ yêu
nhau, và sau đó
Anh sẽ dẫn em vào
quán ăn trưa.
Và nếu như có vé
người ta đưa
Thì anh sẽ đưa em
đi xem kịch
Giờ đang có vở diễn
“Quỉ Robert”
Anh dẫn em đến nhà
hát Opera.
Đấy là một vở diễn
đầy ma thuật
Sự ham mê của quỉ với
tình yêu
Phần nhạc do
Meyerbeer soạn ra
Nhưng phần lời của
Scribe dở ẹc.
_____________
*Giacomo Meyerbeer
(1791 – 1864) – nhạc sĩ Đức gốc Do Thái; Augustin Eugène Scribe (1791 – 1861) –
nhà viết kịch Pháp.
Ja
freilich, du bist mein Ideal
Ja freilich, du
bist mein Ideal,
Habs dir ja oft
bekräftigt
Mit Küssen und
Eiden sonder Zahl;
Doch heute bin ich
beschäftigt.
Komm morgen
zwischen zwei und drei,
Dann sollen neue
Flammen
Bewähren meine
Schwärmerei;
Wir essen nachher
zusammen.
Wenn ich Billette
bekommen kann,
Bin ich sogar
kapabel,
Dich in die Oper zu
führen alsdann:
Man gibt
Robert-le-Diable.
Es ist ein großes
Zauberstück
Voll Teufelslust
und Liebe;
Von Meyerbeer ist
die Musik,
Der schlechte Text
von Scribe.
174.ĐỪNG ĐUỔI ANH
Đừng đuổi anh, mặc
dù
Đam mê không còn
cháy
Chịu đựng vài tháng
nữa
Rồi anh tự ra đi.
Nếu không là người
tình
Thì hãy là người bạn
Từ tình yêu ta chuyển
Sang tình bạn nghe
em.
Schaff
mich nicht ab, wenn auch den Durst
Schaff mich nicht
ab, wenn auch den Durst
Gelöscht der holde
Trunk;
Behalt mich noch
ein Vierteljahr,
Dann hab auch ich
genung.
Kannst du nicht
mehr Geliebte sein,
Sei Freundin mir
sodann;
Hat man die Liebe
durchgeliebt,
Fängt man die
Freundschaft an.
175.MÙA HỘI TÌNH KẾT
THÚC
Mùa hội tình kết
thúc
Tâm hồn ta đắm say
Tất cả đã qua rồi
Giờ ta ngồi ngáp vặt.
Chén tình ta uống cạn
Rượu say từng rót đầy
Mê mẩn và đắm say
Chén tình ta uống cạn.
Đàn giờ đây im tiếng
Đàn từng gọi mời ta
Vào điệu nhảy si mê
Đàn giờ đây im tiếng
Đèn giờ đây tắt
ngóm
Từng chiếu sáng cho
ta
Mặt nạ đủ sắc màu
Đèn giờ đây tắt
ngóm.
Ngày mai là lễ lớn
Tôi vẽ lên trán em
Thập ác và nói rằng:
“Ngươi là bụi, bụi
bặm”.
___________
*Fasching là mùa lễ
hội, thường diễn ra vào trước mùa Chay và chấm dứt vào ngày Thứ tư Lễ Tro.
Dieser
Liebe toller Fasching
Dieser Liebe toller
Fasching,
Dieser Taumel
unsrer Herzen,
Geht zu Ende, und
ernüchtert
Gähnen wir einander
an!
Ausgetrunken ist
der Kelch,
Der mit
Sinnenrausch gefüllt war,
Schäumend, lodernd,
bis am Rande;
Ausgetrunken ist
der Kelch.
Es verstummen auch
die Geigen,
Die zum Tanze mächtig
spielten,
Zu dem Tanz der
Leidenschaft;
Auch die Geigen,
sie verstummen.
Es erlöschen auch
die Lampen,
Die das wilde Licht
ergossen
Auf den bunten
Mummenschanz,
Auch die Lampen,
sie erlöschen.
Morgen kommt der
Aschenmittwoch,
Und ich zeichne
deine Stirne
Mit dem Aschenkreuz
und spreche:
Weib, bedenke, daß
du Staub bist.
176.ĐÃ XUẤT HIỆN RẤT
NHANH
Đã xuất hiện rất
nhanh
Từ một điều cảm nhận
Đam mê không giới hạn
Đã kết nối dịu
dàng.
Càng ngày càng thấy
rõ
Rằng tôi đã mềm
lòng
Rằng tôi đã yêu em
Không nghi ngờ gì nữa.
Tâm hồn em rộng mở
-
Thì mới bước đầu
thôi
Nhưng vẻ đẹp bên
ngoài
Không nghi ngờ gì nữa.
Má hồng, đôi môi đỏ
Đắm đuối nụ cười em
Và sống mũi, hàm
răng
Tôi càng yêu hơn nữa!
Wie
entwickeln sich doch schnelle
Wie entwickeln sich
doch schnelle,
Aus der
flüchtigsten Empfindung,
Leidenschaften ohne
Grenzen
Und die zärtlichste
Verbindung!
Täglich wächst zu
dieser Dame
Meiner Herzens
tiefe Neigung,
Und daß ich in sie
verliebt sei,
Wird mir fast zur
Überzeugung.
Schön ist ihre
Seele. Freilich,
Das ist immer eine
Meinung;
Sichrer bin ich von
der Schönheit
Ihrer äußeren
Erscheinung.
Diese Hüften! Diese
Stirne!
Diese Nase! Die
Entfaltung
Dieses Lächelns auf
den Lippen!
Und wie gut ist
ihre Haltung!
177.EM YÊU ƠI ĐỪNG
SỢ
Em yêu ơi đừng sợ
Và khỏi cần lo âu
Không ai bắt ta đâu
Cửa ngoài anh đã
khóa.
Cơn gió dù giận dữ
Nhà không đổ được
đâu
Anh tắt ngọn đèn dầu
Để khỏi lo bà hỏa.
Anh đưa bàn tay ấm
Vòng quanh cổ của
em
Bởi vì chẳng có
khăn
Anh sợ em cảm lạnh.
Fürchte
nichts, geliebte Seele
Fürchte nichts,
geliebte Seele,
Uebersicher bist du
hier;
Fürchte nicht, daß
man uns stehle,
Ich verriegle schon
die Thür.
Wie der Wind auch
wüthend wehe,
Er gefährdet nicht
das Haus;
Daß auch nicht ein
Brand entstehe,
Lösch’ ich unsre
Lampe aus.
Ach, erlaube daß
ich winde
Meinen Arm um
deinen Hals;
Man erkältet sich
geschwinde
In Ermanglung eines
Schawls.
=(Diana)
178.ĐÂY XÁC THÂN PHỤ
NỮ
Đây xác thân phụ nữ
Vẻ nữ tính, dịu
dàng
Không nước mắt, cãi
cọ
Nàng đồng ý chung
tình.
Tôi kiềm chế thì
hơn
Còn nếu tôi hành động
Có thể rồi hối hận
Có thể sẽ đau lòng.
Chao ôi cổ, đôi vú
Chưa từng thấy cao
hơn
Xin gửi Chúa linh hồn
Trước khi làm chủ
nó.
Diese
schönen Gliedermassen
Diese schönen
Gliedermassen
Colossaler
Weiblichkeit
Sind jetzt, ohne
Widerstreit,
Meinen Wünschen
überlassen.
Wär’ ich,
leidenschaftentzügelt,
Eigenkräftig ihr
genaht,
Ich bereu’te solche
That!
Ja, sie hätte mich
geprügelt.
Welcher Busen, Hals
und Kehle!
(Höher seh’ ich
nicht genau.)
Eh’ ich ihr mich
anvertrau’,
Gott empfehl’ ich
meine Seele.
=(Hortense)
179.NGÀY XƯA TÔI
TIN RẰNG
Ngày xưa tôi tin rằng
Khi tôi hôn vợ mình
Và bao nhiêu người
khác
Là do số phận mình.
Tôi cứ hôn và hôn
Nghiêm túc và gắng
công
Cho rằng mình thực
hiện
Cái nghĩa vụ thiêng
liêng.
Còn bây giờ hiểu rằng
Chỉ sắc sắc không
không
Chẳng còn tin gì cả
Chỉ đơn giản là
hôn.
Ehmals
glaubt ich, alle Küsse
Ehmals glaubt ich,
alle Küsse,
Die ein Weib uns
gibt und nimmt,
Seien uns, durch
Schicksalsschlüsse,
Schon urzeitlich
vorbestimmt.
Küsse nahm ich, und
ich küßte
So mit Ernst in
jener Zeit,
Als ob ich erfüllen
müßte
Taten der
Notwendigkeit.
Jetzo weiß ich,
überflüssig,
Wie so manches, ist
der Kuß,
Und mit leichtern
Sinnen küß ich,
Glaubenlos im
Überfluß.
180.TRÊN MỘT GÓC PHỐ
NỌ
Trên một góc phố nọ
Chúng tôi đứng cả
giờ
Và cùng nhau chuyện
trò
Về chuyện riêng hai
đứa.
Nhắc lại cả trăm lần
Rằng yêu nhau muôn
thuở
Trên một góc phố nọ
Chúng tôi vẫn đứng
yên.
Thần cơ hội đến gần
Nhanh nhẹn và vui vẻ
Thấy chúng tôi như
thế
Liền vỗ cánh bay
nhanh.
Wir standen
an der Straßeneck
Wir standen an der
Straßeneck
Wohl über eine
Stunde;
Wir sprachen voller
Zärtlichkeit
Von unsrem
Seelenbunde.
Wir sagten uns
vielhundertmal,
Daß wir einander
lieben;
Wir standen an der
Straßeneck,
Und sind da
stehngeblieben.
Die Göttin der
Gelegenheit,
Wie 'n Zöfchen,
flink und heiter,
Kam sie vorbei und
sah uns stehn,
Und lachend ging
sie weiter.
181.BAN NGÀY ANH MƠ
ƯỚC
Ban ngày anh mơ ước
Và mơ ước hằng đêm
Mãi ngự trong lòng
anh
Tiếng cười anh quí
nhất.
Ở Montmorencys,
ngày đó
Em ngồi trên con lừa
Bỗng nhiên em lộn
nhào
Rơi vào cây kế sữa.
Con lừa vẫn đứng
yên
Gặm lá cây kế sữa –
Tiếng cười em quí
giá
Anh không bao giờ
quên.
In
meinen Tagesträumen
In meinen
Tagesträumen,
In meinem
nächtlichen Wachen,
Stets klingt mir in
der Seele
Dein allerliebstes
Lachen.
Denkst du noch
Montmorencys,
Wie du auf dem Esel
rittest,
Und von dem hohen
Sattel
Hinab in die
Disteln glittest?
Der Esel blieb
ruhig stehen,
Fing an, die
Disteln zu fressen -
Dein allerliebstes
Lachen
Werde ich nie vergessen.
182.CÂY TÁO ĐỨNG
TRONG VƯỜN
(Một giọng nói:)
Cây táo đứng trong
vườn
Quả táo treo trên
cành
Quả táo kia chín mọng
Mắt con rắn nhìn em
Đôi mắt nó long
lanh
Ngọt ngào và sống động
Và con rắn rít lên
Như một điều may mắn.
(Giọng nói khác:)
Đây trái ngọt của đời
Ngon lắm, hãy thử
coi
Kẻo không thì phí uổng
Cuộc đời ngươi đã sống
Con bồ câu của tôi
Hãy thử một lần
thôi
Hãy tin và thực hiện
Lời khuyên của gì
tôi.
Steht
ein Baum im schönen Garten
(Sie spricht:)
Steht ein Baum im
schönen Garten
Und ein Apfel hängt
daran,
Und es ringelt sich
am Aste
Eine Schlange, und
ich kann
Von den süßen
Schlangenaugen
Nimmer wenden
meinen Blick,
Und das zischelt so
verheißend,
Und das lockt wie
holdes Glück!
(Die Andre
spricht:)
Dieses ist die
Frucht des Lebens,
Koste ihre
Süßigkeit,
Daß du nicht so
ganz vergebens
Lebtest deine
Lebenszeit!
Schönes Kindchen,
fromme Taube,
Kost einmal und
zittre nicht -
Folge meinem Rat
und glaube,
Was die kluge Muhme
spricht.
183.MỘT GIAI ĐIỆU
TÔI CHƠI
Một giai điệu tôi
chơi
Trên đàn, nghe mới
hẳn
Dù lời cũ xưa rồi:
“Đàn bà là cay đắng”*.
Không trung thành với
bạn
Không chung thủy với
chồng
Ngải đắng giọt cuối
cùng
Trong chén tình
vàng óng.
Lời nguyền của con
rắn
Đã chép trong sách
xưa
Từng báo trước cho
ta
Những lời trong Kinh
Thánh.
Con rắn trườn bằng
bụng
Tiếng còn trong bụi
cây.
Lời ngọt từ bờ môi
Với tiếng này rất
giống.
Tối tăm và lạnh lẽo
Quạ đen che mặt trời
Ham muốn và tình
yêu
Muôn đời nằm trong
mộ.
_____________
*Đàn bà cay đắng
hơn là cái chết – lời của Solomon trong quyển “Truyền Đạo” của Kinh Cựu Ước.
Neue
Melodien spiel ich
Neue Melodien spiel
ich
Auf der
neugestimmten Zither.
Alt ist der Text!
Es sind die Worte
Salomos: Das Weib
ist bitter.
Ungetreu ist sie
dem Freunde,
Wie sie treulos dem
Gemahle!
Wermut sind die
letzten Tropfen
In der Liebe
Goldpokale.
Also wahr ist jene
Sage
Von dem dunklen
Sündenfluche,
Den die Schlange
dir bereitet,
Wie es steht im
alten Buche?
Kriechend auf dem
Bauch, die Schlange,
Lauscht sie noch in
allen Büschen,
Kost mit dir noch
jetzt wie weiland,
Und du hörst sie
gerne zischen.
Ach, es wird so
kalt und dunkel!
Um die Sonne
flattern Raben,
Und sie krächzen.
Lust und Liebe
Ist auf lange jetzt
begraben.
184.HẠNH PHÚC EM
BAN TẶNG
Hạnh phúc em ban tặng
Lừa dối tôi một hồi
Em như giấc mơ sai
Trong tim này thơ
thẩn.
Nhưng vừa sáng, rất
mau
Màn sương kia biến
mất
Mọi chuyện đã kết
thúc
Khi chưa kịp bắt đầu.
Nicht
lange täuschte mich das Glück
Nicht lange
täuschte mich das Glück,
Das du mir
zugelogen,
Dein Bild ist wie
ein falscher Traum
Mir durch das Herz
gezogen.
Der Morgen kam, die
Sonne schien,
Der Nebel ist
zerronnen;
Geendigt hatten wir
schon längst,
Eh wir noch kaum
begonnen.
=(Clarisse)
185.LỜI ĐỀ NGHỊ CỦA
ANH
Lời đề nghị của anh
Em sợ nên từ chối
Anh hỏi: em chối hả?
Thì em vội khóc
lên.
Hiếm khi tôi cầu
xin
Nhưng bây giờ xin
Chúa
Hãy làm khô dòng lệ
Và soi sáng tâm
nàng.
Meinen
schönsten Liebesantrag
Meinen schönsten
Liebesantrag
Suchst du ängstlich
zu verneinen;
Frag’ ich dann: ob
das ein Korb sey?
Fängst du plötzlich
an zu weinen.
Selten bet’ ich,
drum erhör’ mich,
Lieber Gott! Hilf
dieser Dirne,
Trockne ihre süßen
Thränen
Und erleuchte ihr
Gehirne.
186.DÙ EM Ở ĐÂU
Dù em ở đâu thì anh
vẫn thế
Ở khắp nơi, anh vẫn
gặp hàng ngày
Em càng muốn xa
anh, càng khó dễ
Anh lại càng yêu em
đến mê say.
Cơn giận của em làm
anh dễ chịu
Trước mặt em anh luống
cuống, ngại ngùng.
Nếu em muốn cho anh
thôi quấy nhiễu
Hãy nhớ rằng em cần
phải yêu anh.
Überall,
wo du auch wandelst
Überall, wo du auch
wandelst,
Schaust du mich zu
allen Stunden,
Und je mehr du mich
mißhandelst,
Treuer bleib ich
dir verbunden.
Denn mich fesselt
holde Bosheit,
Wie mich Güte stets
vertrieben;
Willst du sicher
meiner los sein,
Mußt du dich in
mich verlieben.
187.LẠY QUỈ BẮT MẸ
EM
Lạy quỉ bắt mẹ em
Và cha em bắt nốt
Vì họ, trong nhà
hát
Anh chẳng nhìn được
em.
Họ ngồi ở đầu hàng
Làm anh không thấy
được
Vì họ che khuất hết
Đứa con yêu của
mình.
Họ ngồi xem cuộc
tình
Diễn ra đầy bi kịch
Hai người yêu rồi
chết
Họ vỗ tay rầm rầm.
Hol der
Teufel deine Mutter
Hol der Teufel
deine Mutter,
Hol der Teufel
deinen Vater,
Die so grausam mich
verhindert,
Dich zu schauen im
Theater.
Denn sie saßen da
und gaben,
Breitgeputzt, nur
seltne Lücken,
Dich im Hintergrund
der Loge,
Süßes Liebchen, zu
erblicken.
Und sie saßen da
und schauten
Zweier Liebenden
Verderben,
Und sie klatschten
großen Beifall,
Als sie beide sahen
sterben.
188.ĐÃ MUỘN RỒI, NỤ
CƯỜI KIA ĐÃ MUỘN
Đã muộn rồi, nụ cười
kia đã muộn
Tiếng thổn thức
lòng cũng muộn rồi em
Cảm xúc của tôi giờ
đây chết hẳn
Điều mà em ngày ấy
đã coi thường.
Tình yêu của em
cũng đã muộn màng
Tình đã chết trong
tim này em ạ
Và cả ánh nhìn cháy
bỏng của em
Cũng như ánh mặt trời
trên mộ chí.
*
Tôi chỉ muốn biết rằng:
khi ta chết
Linh hồn của ta sẽ
đi về đâu?
Ngọn lửa kia đã tắt
ở chốn nào?
Và sẽ đi về đâu cơn
gió hát?
Es
kommt zu spät, was du mir lächelst
Es kommt zu spät,
was du mir lächelst,
Was du mir
seufzest, kommt zu spät!
Längst sind
gestorben die Gefühle,
Die du so grausam
einst verschmäht.
Zu spät kommt deine
Gegenliebe!
Es fallen auf mein
Herz herab
All deine heißen
Liebesblicke,
Wie Sonnenstrahlen
auf ein Grab.
*
Nur wissen möcht
ich: wenn wir sterben,
Wohin dann unsre
Seele geht?
Wo ist das Feuer,
das erloschen?
Wo ist der Wind,
der schon verweht?
=(Yolante
und Marie)
189.NHỮNG PHỤ NỮ
NÀY HIỂU
Những phụ nữ này hiểu
Về tài thơ của tôi
Cho nên họ đã mời
Tôi và tài thơ nữa.
Món xúp thật tuyệt
diệu
Rượu vang cũng rất
ngon
Món gà rán tuyệt trần
Và món thỏ áp chảo.
Cùng trò chuyện, và
rồi
Tôi nói lời đa tạ
Cám ơn vì danh dự
Mà họ dành cho tôi.
Diese
Damen, sie verstehen
Diese Damen, sie
verstehen,
Wie man Dichter
ehren muß:
Gaben mir ein
Mittagessen,
Mir und meinem
Genius.
Ach! die Suppe war
vortrefflich,
Und der Wein hat
mich erquickt,
Das Geflügel, das
war göttlich,
Und der Hase war
gespickt.
Sprachen, glaub
ich, von der Dichtkunst,
Und ich wurde
endlich satt;
Und ich dankte für
die Ehre,
Die man mir
erwiesen hat.
190.NÊN YÊU AI BÂY
GIỜ
Nên yêu ai bây giờ,
không biết nữa
Bởi vì rằng phải chọn
một trong hai
Mẹ – là người phụ nữ
rất quyến rũ
Con gái – lại là cô
bé tuyệt vời.
Bàn tay con trắng
ngần, chưa từng trải
Biết làm sao nói hết
được bằng lời
Nhưng ánh mắt người
mẹ đầy khêu gợi
Vẻ dịu dàng vẫn cuốn
hút lòng tôi.
Con tim tôi giống
như một con nai
Đang ngơ ngác đứng
giữa hai đống cỏ
Đống cỏ nào ngon,
thích hợp với tôi
Cứ phân vân, không
dễ dàng chọn lựa.
In
welche soll ich mich verlieben
In welche soll ich
mich verlieben,
Da beide
liebenswürdig sind?
Ein schönes Weib
ist noch die Mutter,
Die Tochter ist ein
schönes Kind.
Die weißen,
unerfahrnen Glieder,
Sie sind so rührend
anzusehn!
Doch reizend sind
geniale Augen,
Die unsre
Zärtlichkeit verstehn.
Es gleicht mein
Herz dem grauen Freunde,
Der zwischen zwey
Gebündel Heu
Nachsinnlich grübelt,
welch' von beiden
Das allerbeste
Futter sey.
191.RƯỢU UỐNG HẾT
TRƠN
Rượu uống hết trơn,
bữa ăn ngon miệng
Hai cô em đôi má đã
ửng hồng
Vẻ bạo dạn, áo ngực
thì trễ xuống
Cả hai người vì rượu
đã lâng lâng.
Vai trắng ngần, bộ
ngực đẹp vô cùng
Con tim tôi run lên
vì sợ hãi
Cả hai cùng cười
vang và sau đấy
Nhảy lên giường rồi
chui vội vào chăn.
Tôi đang định đưa
tay lên kéo rèm
Thì đã nghe vang
khò khè tiếng ngáy
Tôi ngơ ngác giống
như thằng ngốc vậy
Có vẻ như đấy không
phải giường mình.
Die
Flaschen sind leer, das Frühstück ist gut
Die Flaschen sind
leer, das Frühstück ist gut,
Die Dämchen sind
rosig erhitzet;
Sie lüften das
Mieder mit Übermut,
Ich glaube, sie
sind bespitzet.
Die Schulter wie
weiß, die Brüstchen wie nett!
Mein Herz erbebet
vor Schrecken.
Nun werfen sie
lachend sich aufs Bett,
Und hüllen sich ein
mit den Decken.
Sie ziehen nun gar
die Gardinen vor,
Und schnarchen am
End um die Wette.
Da steh ich im
Zimmer ein einsamer Tor,
Betrachte verlegen
das Bette.
192.TUỔI TRẺ ĐÃ
KHÔNG CÒN
Tuổi trẻ đã không
còn
Tôi giờ bạo dạn hơn
Bàn tay tôi can đảm
Ve vuốt những eo
thon.
Có cô từng giật
mình
Định nổi cơn tam
bành
Trước những lời mật
ngọt
Dần dà cũng xuôi
êm.
Nhưng điều quan trọng
hơn
Là giờ đây không
còn
Vẻ hồn nhiên, dại dột
Ngơ ngác của cừu
non.
Jugend,
die mir täglich schwindet
Jugend, die mir
täglich schwindet,
Wird durch raschen
Muth ersetzt,
Und mein kühn’rer
Arm umwindet
Noch viel schlankre
Hüften jetzt.
That auch manche
sehr erschrocken,
Hat sie doch sich
bald gefügt;
Holder Zorn,
verschämtes Stocken
Wird von
Schmeichelen besiegt.
Doch, wenn ich den
Sieg genieße,
Fehlt das Beste mir
dabey.
Ist es die
verschwundne, süße,
Blöde Jugendeseley?
Xem thêm loạt Blogs:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét