Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

Thơ HEINRICH HEINE - Phần 5


86.CƠN GIÓ BIỂN DỮ DẰN

Cơn gió biển dữ dằn
Mặc chiếc quần màu trắng
Đập lên từng con sóng
Nước bọt réo ầm ầm.

Từ giữa trời màu đen
Cơn giông đang dần mạnh
Như đêm thời xa vắng
Nhấn chìm cả đại dương.

Hải âu bám cột buồm
Giọng khàn khàn la hét
Dường như muốn báo trước
Điều tai họa khó lường.

Der Wind zieht seine Hosen an

Der Wind zieht seine Hosen an,
Die weißen Wasserhosen!
Er peitscht die Wellen, so stark er kann,
Die heulen und brausen und tosen.

Aus dunkler Höh, mit wilder Macht,
Die Regengüsse träufen;
Es ist, als wollt die alte Nacht
Das alte Meer ersäufen.

An den Mastbaum klammert die Möwe sich
Mit heiserem Schrillen und Schreien;
Sie flattert und will gar ängstiglich
Ein Unglück prophezeien.


87.CƠN BÃO ĐANG KHIÊU VŨ

Cơn bão đang khiêu vũ
Gầm réo giữa không trung
Tội nghiệp con thuyền con
Giữa trời đêm hoang dã.

Cả núi nước sống động
Làm cho biển gào lên
Đây – vực thẳm màu đen
Kia – cao từng cột trắng.

Lời nguyền rủa, cầu nguyện
Bay ra từ trong khoang
Tôi giữ chặt cột buồn
Chao! Về nhà tôi muốn.

Der Sturm spielt auf zum Tanze

Der Sturm spielt auf zum Tanze,
Er pfeift und saust und brüllt;
Heisa! wie springt das Schifflein!
Die Nacht ist lustig und wild.

Ein lebendes Wassergebirge
Bildet die tosende See;
Hier gähnt ein schwarzer Abgrund,
Dort türmt es sich weiß in die Höh.

Ein Fluchen, Erbrechen und Beten
Schallt aus der Kajüte heraus;
Ich halte mich fest am Mastbaum
Und wünsche: wär ich zu Haus.


88.BUỔI TỐI ĐANG ĐẾN GẦN

Buổi tối đang đến gần
Màn sương ngời trên biển
Những con sóng bí ẩn
Như hướng về trời xanh.

Bỗng có một nàng tiên
Bước đến ngồi bên cạnh
Bộ ngực trắng lấp lánh
Phía sau tấm khăn choàng.

Nàng ôm chầm lấy tôi
Làm cho tôi đau đớn –
“Nàng ôm tôi quá mạnh
Nàng tiên cá của tôi!”

“Ta ôm chặt lấy người
Vì ta muốn sưởi ấm
Bởi vì cơn gió lạnh
Thổi vào từ biển khơi”.

Mặt trăng từ trên trời
Qua đám mây nhìn xuống –
“Sao mắt bạn ướt đẫm
Hở người đẹp biển khơi!”

“Mắt của ta vậy thôi
Có vẻ như ướt đẫm
Bởi vì ta từ biển
Còn giọt nước biển khơi”.

Hải âu bay trên trời
Kêu lên, dường như hỏi –
“Sao tim đập dữ dội
Hở người đẹp biển khơi?”

“Con tim ta rối bời
Và tim đập dữ dội
Bởi yêu không chịu nổi
Hình bóng của con người!”

Der Abend kommt gezogen

Der Abend kommt gezogen,
Der Nebel bedeckt die See;
Geheimnisvoll rauschen die Wogen,
Da steigt es weiß in die Höh.

Die Meerfrau steigt aus den Wellen,
Und setzt sich zu mir an den Strand;
Die weißen Brüste quellen
Hervor aus dem Schleiergewand.

Sie drückt mich und sie preßt mich,
Und tut mir fast ein Weh; -
Du drückst ja viel zu fest mich,
Du schöne Wasserfee!

»Ich preß dich, in meinen Armen,
Und drücke dich mit Gewalt;
Ich will bei dir erwarmen,
Der Abend ist gar zu kalt.«

Der Mond schaut immer blasser
Aus dämmriger Wolkenhöh; -
Dein Auge wird trüber und nasser,
Du schöne Wasserfee!

»Es wird nicht trüber und nasser,
Mein Aug ist naß und trüb,
Weil, als ich stieg aus dem Wasser,
Ein Tropfen im Auge blieb.«

Die Möwen schrillen kläglich,
Es grollt und brandet die See; -
Dein Herz pocht wildbeweglich,
Du schöne Wasserfee!

»Mein Herz pocht wildbeweglich,
Es pocht beweglich wild,
Weil ich dich lieb unsäglich,
Du liebes Menschenbild!«


89.TÔI NGHĨ ĐẾN NHÀ EM

Tôi nghĩ đến nhà em
Khi đi trên đường phố
Em ơi tôi rất mừng
Thấy em qua cửa sổ.

Đôi mắt nâu của em
Nhìn tôi như dò hỏi:
“Anh là ai, người lạ
Tại vì sao anh buồn?”

Tôi là nhà thơ Đức
Nổi tiếng ở xứ này
Ai nhớ người nổi nhất
Người này nhớ đến tôi.

Có nhiều người như tôi
Đang buồn ở nước Đức
Ai người đau khổ nhất
Hiểu tôi buồn đến đâu”.

Wenn ich an deinem Hause

Wenn ich an deinem Hause
Des Morgens vorübergeh,
So freuts mich, du liebe Kleine,
Wenn ich dich am Fenster seh.

Mit deinen schwarzbraunen Augen
Siehst du mich forschend an:
Wer bist du, und was fehlt dir,
Du fremder, kranker Mann?

»Ich in ein deutscher Dichter,
Bekannt im deutschen Land;
Nennt man die besten Namen,
So wird auch der meine genannt.

Und was mir fehlt, du Kleine,
Fehlt manchem im deutschen Land;
Nennt man die schlimmsten Schmerzen,
So wird auch der meine genannt.


90.BIỂN NGỜI LÊN XA XĂM

Biển ngời lên xa xăm
Trong ánh hoàng hôn cuối
Trong nhà người đánh cá
Hai đứa ngồi lặng im.

Màn sương rất nhẹ nhàng
Hải âu vườn trên sóng
Những giọt lệ rơi xuống
Từ đôi mắt dịu hiền.

Giọt lệ trên tay em
Làm anh quì gối xuống
Anh đưa môi khẽ chạm
Và uống nước mắt em.

Từ ngày đó hồn anh
Đã chết vì đau khổ
Nước mắt của phụ nữ
Đầu độc anh muôn năm.

Das Meer erglänzte weit hinaus

Das Meer erglänzte weit hinaus,
Im letzten Abendscheine;
Wir saßen am einsamen Fischerhaus,
Wir saßen stumm und alleine.

Der Nebel stieg, das Wasser schwoll,
Die Möwe flog hin und wieder;
Aus deinen Augen, liebevoll,
Fielen die Tränen nieder.

Ich sah sie fallen auf deine Hand,
Und bin aufs Knie gesunken;
Ich hab von deiner weißen Hand
Die Tränen fortgetrunken.

Seit jener Stunde verzehrt sich mein Leib,
Die Seele stirbt vor Sehnen; -
Mich hat das unglückselge Weib
Vergiftet mit ihren Tränen.


91.NẰM TRÊN MỘT NGỌN ĐỒI

Nằm trên một ngọn đồi
Một ngôi nhà rất đẹp
Và ba cô gái đẹp
Tôi yêu cả ba người.

Thứ bảy hôn Jette
Còn Julia – chủ nhật
Thứ hai Kunigunde
Làm tôi không thở được.

Thứ ba có lễ hội
Trong nhà của ba cô
Các quí ông quí bà
Đến dự bằng xe ngựa.

Tuy tôi không được mời
Nhưng có điều tội lỗi!
Bởi vì họ từng thấy
Nên tất cả cùng cười.

Da droben auf jenem Berge

Da droben auf jenem Berge,
Da steht ein feines Schloß,
Da wohnen drei schöne Fräulein,
Von denen ich Liebe genoß.

Sonnabend küßte mich Jette,
Und Sonntag die Julia,
Und Montag die Kunigunde,
Die hat mich erdrückt beinah.

Doch Dienstag war eine Fete
Bei meinen drei Fräulein im Schloß;
Die Nachbarschafts-Herren und Damen,
Die kamen zu Wagen und Roß.

Ich aber war nicht geladen,
Und das habt ihr dumm gemacht!
Die zischelnden Muhmen und Basen,
Die merktens und haben gelacht.


92.TRÊN ĐƯỜNG CHÂN TRỜI XA

Trên đường chân trời xa
Hiện ra trong sương mù
Thành phố nhiều tháp cổ
Trong ánh nắng chiều tà.

Cơn gió mang hơi ẩm
Rải đều trên dòng sông
Mái chèo tôi cô đơn
Vẫy vùng trên sông nước.

Mặt trời lại sáng rõ
Trên mặt nước như gương
Nơi tôi từng yêu thương
Muôn đời không còn nữa.

Am fernen Horizonte

Am fernen Horizonte
Erscheint, wie ein Nebelbild,
Die Stadt mit ihren Türmen,
In Abenddämmrung gehüllt.

Ein feuchter Windzug kräuselt
Die graue Wasserbahn;
Mit traurigem Takte rudert
Der Schiffer in meinem Kahn.

Die Sonne hebt sich noch einmal
Leuchtend vom Boden empor,
Und zeigt mir jene Stelle,
Wo ich das Liebste verlor.


93.THÀNH PHỐ LỚN BÍ ẨN

Thành phố lớn, bí ẩn
Ta xin được chào ngươi
Nơi đây từng một thời
Tình yêu ta trú ẩn.

Hỡi tháp cao, cổng rộng
Tình yêu ta giờ đâu?
Ta tin tưởng các người
Và cần sự bảo lãnh.

Nhưng tháp không thấu tận
Chẳng biết nói điều gì
Khi người yêu lẳng lặng
Thu xếp để ra đi.

Cổng cũng chẳng biết gì
Khi nàng đi lặng lẽ
Và cổng luôn vui vẻ
Nếu nàng muốn ra đi.

Sei mir gegrüßt, du große,

Sei mir gegrüßt, du große,
Geheimnisvolle Stadt,
Die einst in ihrem Schoße
Mein Liebchen umschlossen hat.

Sagt an, ihr Türme und Tore,
Wo ist die Liebste mein?
Euch hab ich sie anvertrauet,
Ihr solltet mir Bürge sein.

Unschuldig sind die Türme,
Sie konnten nicht von der Stell,
Als Liebchen mit Koffern und Schachteln
Die Stadt verlassen so schnell.

Die Tore jedoch, die ließen
Mein Liebchen entwischen gar still;
Ein Tor ist immer willig,
Wenn eine Törin will.


94.ANH LẠI ĐI TRÊN PHỐ

Anh lại đi trên phố
Con đường cũ thân quen
Dừng lại trước nhà em
Giờ hoang tàn bỏ phế.

Con đường sao nhỏ bé!
Ngôi nhà sao tan tành!
Sợ đổ xuống đầu anh
Nên vội vàng bỏ chạy!

So wandl’ ich wieder den alten Weg

So wandl’ ich wieder den alten Weg,
Die wohlbekannten Gassen;
Ich komme von meiner Liebsten Haus,
Das steht so leer und verlassen.

Die Straßen sind doch gar zu eng’!
Das Pflaster ist unerträglich!
Die Häuser fallen mir auf den Kopf!
Ich eile so viel als möglich!


95.ANH LẠI BƯỚC VÀO MỘT GIAN PHÒNG LỚN

Anh lại bước vào một gian phòng lớn
Nơi em từng thề chung thủy với anh
Nơi nước mắt em rơi xuống trên sàn
Giờ ở đó đang bò ra con rắn.

Ich trat in jene Hallen

Ich trat in jene Hallen,
Wo sie mir Treue versprochen;
Wo einst ihre Thränen gefallen,
Sind Schlangen hervor gekrochen.


96.ĐÊM TĨNH LẶNG

Đêm tĩnh lặng, đường phố ngủ mơ màng
Ngôi nhà này ngày xưa em từng ở
Nhưng từ lâu em giã từ thành phố
Chỉ ngôi nhà vẫn đứng đó lặng im.

Đứng trước ngôi nhà vẫn có một chàng
Bẻ ngón tay, hành hạ vì đau khổ
Tôi rùng mình khi con mắt nhìn rõ
Hình bóng của mình ở dưới ánh trăng.

Hỡi người anh em tội nghiệp đáng thương
Ngươi còn đợi chờ khổ đau chi nữa
Ta đã từng yêu đã từng đau khổ
Bao đêm dài trong ngày tháng xa xăm?

Still ist die Nacht

Still ist die Nacht, es ruhen die Gassen,
In diesem Hause wohnte mein Schatz;
Sie hat schon längst die Stadt verlassen
Doch steht noch das Haus auf demselben Platz.

Da steht auch ein Mensch und starr in die Höhe.
Und ringt die Hände vor Schmerzengewalt.
Mir graust es, wenn ich sein Antlitz sehe –
Der Mond reigt mir meine eigne Gestalt,

Du Doppelgänger! Du bleicher Geselle!
Was äffst du nach mein Liebesleid,
Das mich gequält auf dieser Stelle
So manche Nacht in alter Zeit?


97.LÀM SAO EM CÓ THỂ NGỦ VÔ TƯ

Làm sao em có thể ngủ vô tư
Khi em vẫn biết rằng tôi còn sống?
Cơn giận ngày xưa tưởng chừng quên lãng
Phá xiềng gông đang sửa soạn quay về.

Em đã từng nghe bài hát ngày xưa
Có chàng hiệp sĩ vì tình đã chết
Một hôm nửa đêm trở về mai phục
Bắt người yêu, dẫn người ấy xuống mồ.

Tin tôi đi, hỡi em gái ngây thơ
Hôm nào đó tìm nhà em tôi đến
Hãy nhớ rằng tôi người đang còn sống
Nên mạnh mẽ hơn cả những hồn ma.

Wie kannst du ruhig schlafen

Wie kannst du ruhig schlafen,
Und weißt, ich lebe noch?
Der alte Zorn kommt wieder,
Und dann zerbrech’ ich mein Joch.

Kennst du das alte Liedchen:
Wie einst ein todter Knab’
Um Mitternacht die Geliebte
Zu sich geholt in’s Grab?

Glaub’ mir, du wunderschönes,
Du wunderholdes Kind,
Ich lebe und bin noch stärker
Als alle Todten sind!


98.CÔ GÁI NGỦ TRONG PHÒNG

Cô gái ngủ trong phòng
Ánh trăng nhìn run rẩy
Ngoài đường có ai đấy
Chơi đàn và hát lên.

Cô nhìn ra cửa sổ
Xem ai đã làm phiền
Cô thấy một bộ xương
Hát những lời như vậy:

“Em hứa sẽ cùng nhảy
Sao em chẳng giữ lời
Hôm nay có ngày hội
Hãy ra nhảy với tôi”.

Cô gái liền vội vàng
Ra khỏi nhà, theo bước
Bộ xương đi phía trước
Vừa đàn vừa hát vang.

Nhảy nhót và đánh đàn
Xương kêu lên răng rắc
Cái đầu lâu gật gật
Kinh hoàng dưới ánh trăng.

Die Jungfrau schläft in der Kammer

»Die Jungfrau schläft in der Kammer,
Der Mond schaut zitternd hinein;
Da draußen singt es und klingt es,
Wie Walzermelodein.

Ich will mal schaun aus dem Fenster,
Wer drunten stört meine Ruh.
Da steht ein Totengerippe,
Und fiedelt und singt dazu:

Hast einst mir den Tanz versprochen,
Und hast gebrochen dein Wort,
Und heut ist Ball auf dem Kirchhof,
Komm mit, wir tanzen dort.

Die Jungfrau ergreift es gewaltig,
Es lockt sie hervor aus dem Haus;
Sie folgt dem Gerippe, das singend
Und fiedelnd schreitet voraus.

Es fiedelt und tänzelt und hüpfet,
Und klappert mit seinem Gebein,
Und nickt und nickt mit dem Schädel
Unheimlich im Mondenschein.«


99.ANH ĐỨNG TRONG BÓNG TỐI

Anh đứng trong bóng tối
Nhìn kỹ bức chân dung
Gương mặt em thân ái
Sống động trước mắt anh.

Một nụ cười tuyệt đẹp
Trên bờ môi im lìm
Anh thấy dòng nước mắt
Trong đôi mắt của em.

Và anh đã khóc lên
Nước mắt dài trên má
Dường như anh không thể
Tin rằng đã mất em!

Ich stand in dunkeln Träumen

Ich stand in dunkeln Träumen
Und starrte ihr Bildniß an,
Und das geliebte Antlitz
Heimlich zu leben begann.

Um ihre Lippen zog sich
Ein Lächeln wunderbar,
Und wie von Wehmuthsthränen
Erglänzte ihr Augenpaar.

Auch meine Thränen flossen
Mir von den Wangen herab –
Und ach, ich kann es nicht glauben,
Daß ich Dich verloren hab’!


100.TA LÀ ATLAS BẤT HẠNH*

Ta là Atlas bất hạnh! Cả thế gian
Cả thế gian ta phải gánh trên mình
Nhưng gánh nặng này sức không chịu nổi
Và con tim ta muốn vỡ tan tành.

Con tim kiêu hãnh! Ngươi muốn điều này
Ngươi mong hạnh phúc, hạnh phúc sâu dày
Hoặc bất hạnh, hoặc khổ đau vô hạn
Thì bây giờ ngươi bất hạnh đấy thôi.

Ich unglücksel'ger Atlas! eine Welt

Ich unglücksel'ger Atlas! eine Welt,
Die ganze Welt der Schmerzen, muß ich tragen,
Ich trage Unerträgliches, und brechen
Will mir das Herz im Leibe.

Du stolzes Herz! du hast es ja gewollt,
Du wolltest glücklich sein, unendlich glücklich,
Oder unendlich elend, stolzes Herz,
Und jetzo bist du elend.
________________
*Atlas – là một trong những vị thần khổng lồ trong thần thoại Hy Lạp, người nâng đỡ bầu trời, là sự trừng phạt cho việc tham gia vào sự nổi loạn chống lại thần Dớt.


101.NĂM THÁNG VẪN QUA MAU

Bao kiếp người đều chết
Năm tháng vẫn qua mau
Chỉ tình yêu không hết
Ngự trong trái tim sầu.

Xin một lần tôi được
Quì xuống dưới chân nàng
Nói một lời rồi chết:
Madame, tôi yêu em!

Die Jahre kommen und gehen

Die Jahre kommen und gehen,
Geschlechter steigen ins Grab,
Doch nimmer vergeht die Liebe,
Die ich im Herzen hab.

Nur einmal noch möcht ich dich sehen
Und sinken vor dir aufs Knie,
Und sterbend zu dir sprechen:
Madame, ich liebe Sie!


102.TRONG GIẤC MƠ TÔI THẤY TRĂNG BUỒN BÃ

Trong giấc mơ tôi thấy trăng buồn bã
Và những ngôi sao cũng thật u buồn
Thấy thành phố, nơi em từng ở đó
Nơi cách xa tôi ngàn vạn dặm đường.

Giấc mơ đưa tôi về với nhà em
Tôi quì xuống hôn lên từng bậc cửa
Nơi đã từng đi đôi bàn chân nhỏ
Và chiếc áo choàng từng khẽ chạm lên.

Đêm rất dài và đêm thật lạnh lùng
Những viên đá cũng lạnh lùng như thế
Và dường như có ai từ cửa sổ
Ném ánh nhìn buồn bã giữa ánh trăng.

Mir träumte: traurig schaute der Mond

Mir träumte: traurig schaute der Mond,
Und traurig schienen die Sterne;
Es trug mich zur Stadt, wo Liebchen wohnt,
Viel hundert Meilen ferne.

Es hat mich zu ihrem Hause geführt,
Ich küßte die Steine der Treppe,
Die oft ihr kleiner Fuß berührt
Und ihres Kleides Schleppe.

Die Nacht war lang, die Nacht war kalt,
Es waren so kalt die Steine;
Es lugt aus dem Fenster die blasse Gestalt,
Beleuchtet vom Mondenscheine.


103.GIỌT LỆ CÔ ĐƠN

Hỡi giọt lệ cô đơn
Làm mắt ta u ám
Lệ từ thuở hồng hoang
Trong mắt này còn đọng.

Những chị em của lệ
Đều tan biến hết rồi
Những niềm vui, nỗi khổ
Theo gió thoảng mây trôi.

Những vì sao đã biến
Giống như khói sương tan
Dù đã từng ban tặng
Niềm vui và nỗi buồn.

Tình yêu giờ không còn
Giống như bao giấc mộng!
Thì giọt lệ cô đơn
Lúc này xin hãy biến!

Was will die einsame Träne

Was will die einsame Träne?
Sie trübt mir ja den Blick.
Sie blieb aus alten Zeiten
In meinem Auge zurück.

Sie hatte viel leuchtende Schwestern,
Die alle zerflossen sind,
Mit meinen Qualen und Freuden,
Zerflossen in Nacht und Wind.

Wie Nebel sind auch zerflossen
Die blauen Sternelein,
Die mir jene Freuden und Qualen
Gelächelt ins Herz hinein.

Ach, meine Liebe selber
Zerfloß wie eitel Hauch!
Du alte, einsame Träne,
Zerfließe jetzunder auch!


104.TRĂNG LƯỠI LIỀM MÙA THU

Trăng lưỡi liềm mùa thu
Chiếu qua mây mờ tỏ
Bên cạnh một nghĩa địa
Là nhà một mục sư.

Người mẹ đọc Kinh Thánh
Đứa con trai nhìn đèn
Cô chị muốn đi nằm
Cô em liền lên tiếng.

“Chúa ơi, đời buồn chán
Bao giờ kết thúc đây!
Chỉ có một niềm vui
Nhìn cảnh người mai táng”.

Người mẹ vội lên tiếng:
“Chỉ bốn người, con nhầm –
Từ ngày chôn cha con
Bên cạnh ngôi mồ lớn”.

Cô chị gái ngáp dài:
“Con chẳng lo chết đói
Ngày mai con đến với
Người giàu có, đẹp trai”.

Cậu con trai cũng cười:
“Con biết ba người thợ
Họ làm vàng, và sẽ
Dạy con bí mật này”.

Người mẹ giơ Kinh Thánh
Vào mặt đứa con trai:
“Chúa sẽ trừng phạt mày
Như một tên ăn trộm!”

Bỗng tất cả rùng mình
Khi nhìn qua cửa sổ
Thấy người cha quá cố
Đứng mặc áo choàng đen.

Der bleiche, herbstliche Halbmond

Der bleiche, herbstliche Halbmond
Lugt aus den Wolken heraus;
Ganz einsam liegt auf dem Kirchhof
Das stille Pfarrerhaus.

Die Mutter liest in der Bibel,
Der Sohn, der starret ins Licht,
Schlaftrunken dehnt sich die ältre,
Die jüngere Tochter spricht:

Ach Gott, wie einem die Tage
Langweilig hier vergehn!
Nur wenn sie einen begraben,
Bekommen wir etwas zu sehn.

Die Mutter spricht zwischen dem Lesen:
Du irrst, es starben nur Vier,
Seit man deinen Vater begraben
Dort an der Kirchhofstür.

Die ältre Tochter gähnet:
Ich will nicht verhungern bei euch,
Ich gehe morgen zum Grafen,
Und der ist verliebt und reich.

Der Sohn bricht aus in Lachen:
Drei Jäger zechen im Stern,
Die machen Gold und lehren
Mir das Geheimnis gern.

Die Mutter wirft ihm die Bibel
Ins magre Gesicht hinein:
So willst du, Gottverfluchter,
Ein Straßenräuber sein!

Sie hören pochen ans Fenster,
Und sehn eine winkende Hand;
Der tote Vater steht draußen
Im schwarzen Predgergewand.


105.MỘT HÔM THỜI TIẾT XẤU

Một hôm thời tiết xấu
Trời mưa, nước ngập tràn
Tôi ngồi bên cửa sổ
Mắt nhìn vào bóng đêm.

Có ánh đèn đơn lẻ
Di chuyển chậm trên đường
Người mẹ cầm đèn lồng
Bước đi trên đường phố.

Chắc cô đi mua bột
Mua trứng và mua bơ
Để về làm bánh ngọt
Cho con gái của cô.

Đứa con nằm trên ghế
Mơ màng nhìn ngọn đèn
Mái tóc vàng óng ả
Gương mặt đẹp vô cùng.

Das ist ein schlechtes Wetter

Das ist ein schlechtes Wetter,
Es regnet und stürmt und schmeit;
Ich sitze am Fenster und schaue
Hinaus in die Dunkelheit.

Da schimmert ein einsames Lichtchen,
Das wandelt langsam fort;
Ein Mütterchen mit dem Laternchen
Wankt über die Straße dort.

Ich glaube, Mehl und Eier
Und Butter kaufte sie ein;
Sie will einen Kuchen backen
Fürs große Töchterlein.

Die liegt zu Haus im Lehnstuhl,
Und blinzelt schläfrig ins Licht;
Die goldnen Locken wallen
Über das süße Gesicht.


106.NGƯỜI CHO RẰNG TÔI KHỔ

Người cho rằng tôi khổ
Tôi đau bởi vì tình
Tôi cũng tin như thế
Với họ tôi đồng tình.

Với em, đôi mắt xanh
Tôi vẫn thường nói vậy:
“Tại vì yêu em quá
Tôi làm hỏng tim mình”.

Nhưng chỉ khi cô đơn
Tôi nói lời như thế.
Và chỉ biết lặng lẽ
Khi có em ngồi bên.

Có những thiên thần ác
Đã khóa miệng của tôi
Vì những thiên thần ác
Mà tôi khổ thế này.

Man glaubt, daß ich mich gräme

Man glaubt, daß ich mich gräme,
In bitterm Liebesleid,
Und endlich glaub ich es selber,
So gut wie andre Leut.

Du Kleine mit großen Augen,
Ich hab es dir immer gesagt,
Daß ich dich unsäglich liebe,
Daß Liebe mein Herz zernagt.

Doch nur in einsamer Kammer
Sprach ich auf solche Art,
Und ach! ich hab immer geschwiegen
In deiner Gegenwart.

Da gab es böse Engel,
Die hielten mir zu den Mund;
Und ach! durch böse Engel
Bin ich so elend jetzund.


107.BÀN TAY ĐẸP CỦA EM

Bàn tay đẹp của em
Cho tôi hôn lần nữa
Và ôm em vào lòng
Rồi ra đi lặng lẽ.

Mắt màu tím rõ ràng
Không cho tôi yên ổn
Và tôi bị tra tấn
Bởi bí ẩn màu xanh.

Deine weichen Lilienfinger

Deine weichen Lilienfinger,
Könnt’ ich sie noch einmal küssen,
Und sie drücken an mein Herz,
Und vergehn in stillem Weinen!

Deine klaren Veilchenaugen
Schweben vor mir Tag und Nacht,
Und mich quält es: was bedeuten
Diese süßen, blauen Räthsel?


108.CHẲNG LẼ BẠN CHƯA TỪNG

Chẳng lẽ bạn chưa từng
Nói với nàng điều ấy?
Và tình yêu đáp lại
Không thấy trong mắt nàng?

Bạn cũng chưa bao giờ
Chạm đến hồn người ấy?
Trong những chuyện như vậy
Bạn đúng là con lừa.

Hat sie sich denn nie geäußert

»Hat sie sich denn nie geäußert
Über dein verliebtes Wesen?
Konntest du in ihren Augen
Niemals Gegenliebe lesen?

Konntest du in ihren Augen
Niemals bis zur Seele dringen?
Und du bist ja sonst kein Esel,
Teurer Freund, in solchen Dingen.«
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét