=(Jenny)
193.GỬI JENNY
Tôi bây giờ đã là
ba lăm tuổi
Còn em thì chỉ vừa
mới mười lăm
Nhưng mỗi lần nhìn
em, Jenny ạ
Giấc mơ xưa lại thức
dậy trong lòng!
Vào năm một nghìn
tám trăm mười bảy
Tôi gặp một người
con gái như em
Mái tóc của nàng giống
như em vậy
Giống cả nụ cười,
dáng vẻ tự nhiên.
Thế rồi tôi bước
vào trường Đại học
Tôi dặn nàng: “Hãy
gắng đợi chờ anh
Anh sẽ quay về một
ngày gần nhất”
Nàng nói rằng: “Em
mãi mãi của anh”.
Ba năm trời học ở
Göttingen
Ba năm miệt mài với
bao sách luật
Thế rồi một hôm nhận
thư biết được
Người yêu của tôi
đã bước theo chồng.
Khi đó tháng Năm,
khi đó mùa xuân
Những bông hoa nở đầy
trong thung lũng
Những con chim đã cất
tiếng hót vang
Những con sâu cũng
vui đùa trong nắng.
Nhưng tôi buồn,
xanh xao và u ám
Vì buồn đau mà sức
lực không còn
Chỉ có Chúa Trời may
ra thấu tận
Những điều gì tôi
đã chịu hằng đêm.
Nhưng tôi phục hồi.
Như cây sồi xanh
Vẻ mạnh mẽ hiện
trong từng nhánh lá
Giờ mỗi lần nhìn
em, Jenny ạ
Giấc mơ xưa lại thức
dậy trong lòng!
An
Jenny
Ich bin nun
fünfunddreißig Jahr alt,
Und du bist fünfzehnjährig
kaum ...
O Jenny, wenn ich
dich betrachte,
Erwacht in mir der
alte Traum!
Im Jahre
achtzehnhundert siebzehn
Sah ich ein
Mädchen, wunderbar
Dir ähnlich an
Gestalt und Wesen,
Auch trug sie ganz
wie du das Haar.
Ich geh auf
Universitäten,
Sprach ich zu ihr,
ich komm zurück
In kurzer Zeit,
erwarte meiner.
Sie sprach:
"Du bist mein einzges Glück."
Drei Jahre schon
hatt ich Pandekten
Studiert, als ich
am ersten Mai
Zu Göttingen die
Nachricht hörte,
Daß meine Braut
vermählet sei.
Es war am ersten
Mai! Der Frühling
Zog lachend grün
durch Feld und Tal,
Die Vögel sangen,
und es freute
Sich jeder Wurm im
Sonnenstrahl.
Ich aber wurde blaß
und kränklich,
Und meine Kräfte
nahmen ab;
Der liebe Gott nur
kann es wissen,
Was ich des Nachts
gelitten hab.
Doch ich genas.
Meine Gesundheit
Ist jetzt so stark
wie'n Eichenbaum ...
O Jenny, wenn ich
dich betrachte,
Erwacht in mir der
alte Traum!
=(Emma)
194.ÔNG ĐỨNG ĐÓ NHƯ
MỘT THÂN CÂY VỮNG
Ông đứng đó như một
thân cây vững
Trong lạnh lùng,
trong nóng bỏng, gió sương
Những ngón chân của
người trong đất cứng
Còn những cánh tay
về phía trời xanh.
Bagiratha từng khổ
đau như vậy
Và thần Brama đã
giúp đỡ cho ông
Ngài đã biến nước mắt
thành dòng chảy
Và sông Hằng đổ xuống
tự trời xanh.
Nhưng còn tôi yêu
em trong vô vọng
Mà em thì không một
chút xót thương
Từ đôi mắt em như bầu
trời xanh
Không một giọt nước
mắt nào chảy xuống.
____________
*Bagiratha (tiếng
Anh: Bhagiratha; tiếng Phạn: भगीरथ,) – vị vua huyền thoại của Ấn Độ, người đã mang
sông Hằng từ bầu trời xuống mặt đất.
Er
steht so starr wie ein Baumstamm
Er steht so starr
wie ein Baumstamm,
In Hitz’ und Frost
und Wind,
Im Boden wurzelt
die Fußzeh’,
Die Arme erhoben
sind.
So quält sich
Bagiratha lange,
Und Brama will
enden sein Weh’,
Er läßt den Ganges
fließen
Herab von der
Himmelshöh’.
Ich aber, Geliebte,
vergebens
Martre und quäl’
ich mich ab,
Aus deinen
Himmelsaugen
Fließt mir kein
Tropfen herab.
195.NIỀM HẠNH PHÚC
BẤT TẬN
Niềm hạnh phúc bất
tận
Anh chờ nó cả ngày
Ánh mắt em láu lỉnh
Say đắm và ngất
ngây.
Lời nói thì nghèo
khó
Lời nói thì vụng về
Lời vội bay theo
gió
Như con bướm ngoài
kia.
Nhưng mắt thì vô tận
Nhưng mắt thì vô
cùng
Ngực em như trời
xanh
Có bao vì sao sáng.
Vier
und zwanzig Stunden soll ich
Vier und zwanzig
Stunden soll ich
Warten auf das
höchste Glück,
Das mir blinzelnd
süß verkündet,
Blinzelnd süß der
Seitenblick.
O! die Sprache ist
so dürftig,
Und das Wort ein
plumpes Ding;
Wird es
ausgesprochen, flattert
Fort der schöne
Schmetterling.
Doch der Blick, der
ist unendlich,
Und er macht
unendlich weit
Deine Brust, wie
einen Himmel
Voll gestirnter
Seligkeit.
196.CHẲNG CÓ MỘT NỤ
HÔN
Chẳng có một nụ hôn
Của tình trong nhiều
tháng
Môi của tôi khô cứng
Tôi cô đơn, tôi buồn.
Dường như cảm thấy
gần
Người yêu trong hơi
thở
Bỗng nhiên không
còn nữa
Hạnh phúc vút qua
nhanh.
Nicht
mahl einen einz’gen Kuß
Nicht mahl einen
einz’gen Kuß,
Nach so monatlangem
Lieben!
Und so bin ich
Allerärmster
Trocknen Mundes
stehn geblieben.
Einmahl kam das
Glück mir nah –
Schon konnt ich den
Athem spüren –
Doch es flog
vorüber – ohne
Mir die Lippen zu
berühren.
197.EMMA ƠI, HÃY
NÓI THẬT VỚI ANH
Emma ơi, hãy nói thật
với anh
Có phải vì yêu mà
anh dại dột?
Hay là bản thân
tình yêu điên cuồng
Chính là hậu quả của
điều ngu ngốc?
Emma ơi, nỗi khổ
hành hạ anh
Ngoài mối tình của
anh đồ sộ đó
Ngoài tình yêu điên
cuồng, anh còn khổ
Vì đã rơi vào tình
thế lưỡng nan.
Emma,
sage mir die Wahrheit
Emma, sage mir die
Wahrheit:
Ward ich närrisch
durch die Liebe?
Oder ist die Liebe
selber
Nur die Folge
meiner Narrheit?
Ach! mich quälet,
teure Emma,
Außer meiner tollen
Liebe,
Außer meiner
Liebestollheit,
Obendrein noch dies
Dilemma.
198.SỐNG VỚI EM
XUNG KHẮC VÀ CÃI CỌ
Sống với em, xung
khắc và cãi cọ
Muốn bỏ nhà bỏ cửa
để lang thang
Nhưng xa em thấy
cái chết rất gần
Anh sống mà không
còn ra sống nữa.
Rồi hằng đêm anh đã
nằm suy nghĩ:
Chọn Cái chết hay Địa
ngục trần gian -
Và tin rằng đó là
điều khốn khổ
Đã biến anh thành một
kẻ điên cuồng.
Bin ich
bei dir, Zank und Not
Bin ich bei dir,
Zank und Not!
Und ich will mich
fortbegeben!
Doch das Leben ist
kein Leben
Fern von dir, es
ist der Tod.
Grübelnd lieg ich
in der Nacht,
Zwischen Tod und
Hölle wählend -
Ach! ich glaube,
dieses Elend
Hat mich schon
verrückt gemacht.
199.TẤT CẢ CUỐI ĐỜI
TRỞ NÊN KHỦNG KHIẾP
Tất cả cuối đời trở
nên khủng khiếp
Bóng đêm dài đang
đi tới rất mau
Hồn mỏi mệt, ta đưa
mắt nhìn nhau
Và rồi thở dài và rồi
ngáp vặt.
Em đã già, anh lại
càng già hơn
Tuổi thanh xuân đâu
còn quay trở lại
Em tê tái, anh lại
càng tê tái
Còn mùa đông thì
còn lạnh lùng hơn.
Đời là thế, kết cục
thật đau buồn
Sau những đam mê,
điều gì còn lại
Chỉ những mối lo mà
chẳng có tình
Sau cuộc đời, cái
chết kia sẽ tới.
Schon
mit ihren schlimmsten Schatten
Schon mit ihren
schlimmsten Schatten
Schleicht die böse
Nacht heran;
Unsre Seelen, sie
ermatten,
Gähnend schauen wir
uns an.
Du wirst alt und
ich noch älter,
Unser Frühling ist
verblüht.
Du wirst kalt und
ich noch kälter,
Wie der Winter
näher zieht.
Ach, das Ende ist
so trübe!
Nach der holden
Liebesnot
Kommen Nöten ohne
Liebe,
Nach dem Leben
kommt der Tod.
=Những
bài ca sáng tạo (Schöpfungslieder)
200.CHÚA TẠO RA MẶT
TRỜI
Chúa tạo ra mặt trời
Những ngôi sao sau
đấy
Và tạo ra con bò
Từ giọt mồ hôi chảy.
Ngài tạo thú hoang
dã:
Sư tử chân kinh
hoàng
Và theo mẫu sư tử
Ngài tạo chú mèo
con.
Ngài tạo ra đàn ông
Giữa thú rừng hoang
dã
Và tạo ra con khỉ
Gần giống với đàn
ông.
Quỉ thấy vậy cười gằn:
Chúa lặp lại chính
mình
Lấy con bò làm mẫu
Ngài tạo chú bê
con.
Im
Beginn schuf Gott die Sonne
Im Beginn schuf
Gott die Sonne,
Dann die
nächtlichen Gestirne;
Hierauf schuf er
auch die Ochsen,
Aus dem Schweiße
seiner Stirne.
Später schuf er
wilde Bestien,
Löwen mit den
grimmen Tatzen;
Nach des Löwen
Ebenbilde
Schuf er hübsche
kleine Katzen.
Zur Bevölkerung der
Wildnis
Ward hernach der
Mensch erschaffen;
Nach des Menschen
holdem Bildnis
Schuf er
intressante Affen.
Satan sah dem zu
und lachte:
Ei, der Herr
kopiert sich selber!
Nach dem Bilde
seiner Ochsen
Macht er noch am
Ende Kälber!
201.CHÚA TRẢ LỜI VỚI
QUỶ
Chúa trả lời với quỷ:
Ta là Chúa, vì thế
Theo mặt trời – tạo
sao
Theo mẫu bò – tạo
bê
Theo sư tử đáng sợ
Tạo con mèo đáng
yêu
Theo con người – tạo
khỉ
Còn mi, tạo gì đâu?
Und der
Gott sprach zu dem Teufel
Und der Gott sprach
zu dem Teufel:
Ich, der Herr,
kopier mich selber,
Nach der Sonne mach
ich Sterne,
Nach den Ochsen
mach ich Kälber,
Nach den Löwen mit
den Tatzen
Mach ich kleine
liebe Katzen,
Nach den Menschen
mach ich Affen;
Aber du kannst gar
nichts schaffen.
202.CON NGƯỜI, SƯ TỬ,
BÒ, MẶT TRỜI
Con người, sư tử,
bò, mặt trời
Ta tạo ra vì vinh
quang, giá trị
Còn những vì sao,
bê, mèo, khỉ
Ta tạo ra chỉ để giải
trí thôi.
Ich hab
mir zu Ruhm und Preis erschaffen
Ich hab mir zu Ruhm
und Preis erschaffen
Die Menschen,
Löwen, Ochsen, Sonne;
Doch Sterne,
Kälber, Katzen, Affen
Erschuf ich zu
meiner eigenen Wonne.
203.TA TẠO DỰNG THẾ
GIAN
Ta tạo dựng thế
gian
Chỉ trong vòng một
tuần
Nhưng kế hoạch sáng
tạo
Ấp ủ cả ngàn năm.
Tạo dựng – là quá
trình
Dù nhào nặn giây
lát
Nhưng cần phải xem
xét
Nghệ sĩ mới xứng
danh.
Có lẽ ba trăm năm
Ta suy nghĩ, dằn vặt:
Tạo ông tiến sĩ luật
Hay bọ chét loăng
quăng.
Kaum
hab ich die Welt zu schaffen begonnen
Kaum hab ich die
Welt zu schaffen begonnen,
In einer Woche wars
abgetan.
Doch hatt ich
vorher tief ausgesonnen
Jahrtausendlang den
Schöpfungsplan.
Das Schaffen selbst
ist eitel Bewegung,
Das stümpert sich
leicht in kurzer Frist;
Jedoch der Plan,
die Überlegung,
Das zeigt erst, wer
ein Künstler ist.
Ich hab allein
dreihundert Jahre
Tagtäglich drüber
nachgedacht,
Wie man am besten
Doctores juris
Und gar die kleinen
Flöhe macht.
204.NGÀY THỨ SÁU
CHÚA BẢO
Ngày thứ sáu Chúa bảo:
Đã đến ngày cuối
cùng
Sự sáng tạo tuyệt
diệu
Tất cả đã thành
công.
Chao ôi mặt trời
vàng
Lấp lánh trên đại
dương!
Chao ôi cây tỏa
bóng
Như trong một bức
tranh?
Không trắng như tuyết
tùng
Bầy chiên trên đồng
cỏ?
Chẳng lẽ không tuyệt
mỹ
Sắc đẹp của thiên
nhiên?
Đất, trời đã tạo
xong
Như lòng ta mong muốn.
Loài người sẽ ca tụng
Thiên Chúa suốt
vĩnh hằng!
Sprach
der Herr am sechsten Tage
Sprach der Herr am
sechsten Tage:
Hab am Ende nun
vollbracht
Diese große, schöne
Schöpfung,
Und hab alles gut
gemacht.
Wie die Sonne
rosengoldig
In dem Meere
widerstrahlt!
Wie die Bäume grün
und glänzend!
Ist nicht Alles wie
gemalt?
Sind nicht weiß wie
Alabaster
Dort die Lämmchen
auf der Flur?
Ist sie nicht so
schön vollendet
Und natürlich die
Natur?
Erd und Himmel sind
erfüllet
Ganz von meiner
Herrlichkeit,
Und der Mensch, er
wird mich loben
Bis in alle
Ewigkeit!
205.VẬT CHẤT ĐỂ TẠO
RA THƠ
Vật chất, vật liệu
để tạo ra thơ
Đâu phải lấy từ
ngón tay là có
Ngay Thiên Chúa
cũng không tạo ra gì
Nếu vật chất của
Ngài không đầy đủ.
Từ cát bụi thuở hồng
hoang xưa cổ
Ngài đã tạo nên một
người đàn ông
Rồi từ xương sườn
người đàn ông đó
Ngài tạo nên phụ nữ
đẹp tuyệt trần.
Từ cát bụi Ngài tạo
ra trời xanh
Và thiên thần tạo
ra từ phụ nữ.
Mà vật chất chỉ trở
nên giá trị
Nhờ sự gọt mài nghệ
thuật dày công.
Der
Stoff, das Material des Gedichts
Der Stoff, das
Material des Gedichts,
Das saugt sich
nicht aus dem Finger;
Kein Gott erschafft
die Welt aus nichts,
So wenig wie
irdische Singer.
Aus vorgefundenem
Urweltsdreck
Erschuf ich die
Männerleiber,
Und aus dem
Männerrippenspeck
Erschuf ich die
schönen Weiber.
Den Himmel erschuf
ich aus der Erd
Und Engel aus
Weiberentfaltung;
Der Stoff gewinnt
erst seinen Wert
Durch künstlerische
Gestaltung.
206.SÁNG TẠO ĐỂ LÀM
GÌ
Sáng tạo để làm gì?
Một câu hỏi như vậy
Tâm hồn tôi bừng
cháy
Như ngọn lửa điên rồ.
Bệnh tật là lý do
Thôi thúc sự sáng tạo
Tôi cảm thấy mạnh
khỏe
Khi sáng tạo điều
gì.
Warum
ich eigentlich erschuf
Warum ich
eigentlich erschuf
Die Welt, ich will
es gern bekennen:
Ich fühlte in der
Seele brennen
Wie
Flammenwahnsinn, den Beruf.
Krankheit ist wohl
der letzte Grund
Des ganzen
Schöpferdrangs gewesen;
Erschaffend konnte
ich genesen,
Erschaffend wurde
ich gesund.
=(Friederike)
207.TA BỎ LẠI
BERLIN ĐẦY BỤI BẶM
Ta bỏ lại Berlin đầy
bụi bặm
Nước trà loãng, lắm
chuyện những con người
Nơi nhân gian và cả
Đức Chúa Trời
Thì Hegel đã từ lâu
nói đến.
Ta đi về Ấn Độ, nơi
đầy nắng
Long diên hương
ngào ngạt tỏa mùi thơm
Những người hành
hương về với sông Hằng
Vẻ thành kính trong
áo quần màu trắng.
Ở nơi đó cây cọ mọc
giăng hàng
Bên bờ sông thiêng
hoa sen đua nở
Lâu đài Indra muôn
thuở màu xanh.
Và ở đó, với vẻ rất
chân thành
Anh phủ phục dưới
chân em và nói:
–Thưa phu nhân! Em
đẹp nhất trần gian!
__________________
*Indra – là một
trong những vị thần tối cao của đạo Hindu.
Verlaß
Berlin, mit seinem dicken Sande
Verlaß Berlin, mit
seinem dicken Sande
Und dünnen Tee und
überwitzgen Leuten,
Die Gott und Welt,
und was sie selbst bedeuten,
Begriffen längst
mit Hegelschem Verstande.
Komm mit nach
Indien, nach dem Sonnenlande,
Wo Ambrablüten
ihren Duft verbreiten,
Die Pilgerscharen
nach dem Ganges schreiten,
Andächtig und im
weißen Festgewande.
Dort, wo die Palmen
wehn, die Wellen blinken,
Am heilgen Ufer
Lotosblumen ragen
Empor zu Indras
Burg, der ewig blauen;
Dort will ich
gläubig vor dir niedersinken,
Und deine Füße
drücken, und dir sagen:
Madame! Sie sind
die schönste aller Frauen!
208.SÔNG HẰNG CHẢY,
LINH DƯƠNG ĐƯA MẮT NGÓ
Sông Hằng chảy,
linh dương đưa mắt ngó
Rồi nhảy ra từ những
tán lá xanh
Với chiếc đuôi đầy
màu sắc sặc sỡ
Đang bước ra biểu
diễn những con công.
Thung lũng mặt trời
từ sâu thẳm trái tim
Nhiều hoa mới đang
tưng bừng đua nở
Chim đỗ quyên ca lời
hát thật buồn
Em đẹp nhất giữa
muôn vàn phụ nữ!
Thần Kama nghe ra từ
tất cả
Ngài vẫn sống trong
lồng ngực của em
Và thở bằng những lời
hát diệu huyền.
Ta thấy Wassant
trên đôi môi xinh
Trong mắt em ta tìm
ra đời mới
Bởi đời này chật chội
quá rồi em.
_____________
*Kokilas – chim đỗ
quyên của Ấn Độ; Kama – thần tình yêu của Ấn Độ; Wassant – thần mùa xuân của Ấn
Độ.
Der
Ganges rauscht, mit klugen Augen schauen
Der Ganges rauscht,
mit klugen Augen schauen
Die Antilopen aus
dem Laub, sie springen
Herbei mutwillig,
ihre bunten Schwingen
Entfaltend, wandeln
stolzgespreizte Pfauen.
Tief aus dem Herzen
der bestrahlten Auen
Blumengeschlechter,
viele neue, dringen,
Sehnsuchtberauscht
ertönt Kokilas Singen -
Ja, du bist schön,
du schönste aller Frauen!
Gott Kama lauscht
aus allen deinen Zügen,
Er wohnt in deines
Busens weißen Zelten,
Und haucht aus dir
die lieblichsten Gesänge;
Ich sah Wassant auf
deinen Lippen liegen,
In deinem Aug'
entdeck ich neue Welten,
Und in der eignen
Welt wirds mir zu enge.
209.SÔNG HẰNG CHẢY,
ÔI SÔNG HẰNG VĨ ĐẠI
Sông Hằng chảy, ôi
sông Hằng vĩ đại
Himalaya trong ánh
lửa hoàng hôn
Những voi mẹ, voi
con trong rừng tối
Chúng giẫm chân và
vội vã gầm lên.
Bức tranh đẹp! Ta
thà đem đổi ngựa*
Để lấy bức tranh
tuyệt đẹp thế này
Vẻ đẹp này không gì
so sánh nổi
Mang cho ta sảng
khoái với niềm vui.
Thật vô ích ngươi
nhìn ta nhởn nhơ
Nhưng vật lộn với vần
và cảm giác
Ngươi mỉm cười trên
đau khổ của ta.
Cứ cười đi! Nhưng
sau nụ cười kia
Những nhạc công vẫn
ôm đàn và hát**
Trong ánh vàng cung
điện tỏa từ xa.
______________
*Ta thà đem đổi ngựa
(Mein Pferd für'n gutes Bild!) – câu này mỉa mai nhắc lại lời của vua Richard
III từ vở kịch “Richard III” của William Shakespeare: “Ôi ngựa, ôi ngựa! Ta đem
cả vương quốc đổi ngựa!” (A horse, a horse! My kingdom for a horse! – Màn
V, cảnh IV).
**Những nhạc công
(Gandarven) – trong thần thoại Ấn Độ là những vị thần trẻ, những nhạc công
trong cung điện của thần Indra.
Der
Ganges rauscht, der große Ganges schwillt
Der Ganges rauscht,
der große Ganges schwillt,
Der Himalaja
strahlt im Abendscheine,
Und aus der Nacht
der Banianenhaine
Die Elefantenherde
stürzt und brüllt -
Ein Bild! Ein Bild!
Mein Pferd für'n gutes Bild!
Womit ich dich
vergleiche, Schöne, Feine,
Dich
Unvergleichliche, dich Gute, Reine,
Die mir das Herz
mit heitrer Lust erfüllt!
Vergebens siehst du
mich nach Bildern schweifen,
Und siehst mich mit
Gefühl und Reimen ringen -
Und, ach! du
lächelst gar ob meiner Qual!
Doch lächle nur!
Denn wenn du lächelst, greifen
Gandarven nach der
Zither, und sie singen
Dort oben in dem
goldnen Sonnensaal.
=(Katharina)
210.NGÔI SAO HIỆN
TRONG ĐÊM TỐI CỦA TÔI
Ngôi sao hiện trong
đêm tối của tôi
Niềm an ủi ngọt
ngào đang nghiêng xuống
Cuộc đời mới cho
tôi đầy hứa hẹn –
Ôi, xin chớ dối lừa!
Giống như sóng biển
hướng về mặt trăng kia
Con sóng lòng tôi
cũng về em hướng đến
Thứ ánh sáng vẫn
không ngừng tỏa rạng
Ôi, xin chớ dối lừa!
Ein
schöner Stern geht auf in meiner Nacht
Ein schöner Stern
geht auf in meiner Nacht,
Ein Stern, der
süßen Trost herniederlacht
Und neues Leben mir
verspricht -
O, lüge nicht!
Gleichwie das Meer
dem Mond entgegenschwillt,
So flutet meine
Seele, froh und wild,
Empor zu deinem
holden Licht -
O, lüge nicht!
211.GIỐNG NHƯ CHÀNG
MERLIN
Giống như chàng
Merlin
Tôi rơi vào xiềng
xích
Đành chỉ biết quay
vòng
Cái vòng tròn ma
thuật.
Nằm ở dưới chân
nàng
Tôi chìm vào quên
lãng
Tôi nhìn vào mắt em
Giờ khắc trôi chầm
chậm.
Những giờ, ngày và
tuần
Trôi đi như giấc ngủ
Nói gì – không nhớ
nữa
Cũng chẳng nhớ lời
em.
Đôi khi tôi cảm thấy
Bờ môi chạm vào
nhau
Và nhận ra điều này
Trong lòng tôi lửa
cháy.
_______________
*Merlin là một pháp
sư trong cung điện của vua Arthur. Nhân vật trong nhiều câu chuyện được gọi là
“Truyền thuyết Arthur” (Romances Arthur) ở châu Âu thời Trung cổ.
Wie
Merlin, der eitle Weise
Wie Merlin, der
eitle Weise,
Bin ich armer
Nekromant
Nun am Ende
festgebannt
In die eignen
Zauberkreise.
Festgebannt zu
ihren Füßen
Lieg ich nun, und
immerdar
Schau ich in ihr
Augenpaar;
Und die Stunden,
sie verfließen.
Stunden, Tage,
ganze Wochen,
Sie verfließen wie
ein Traum,
Was ich rede, weiß
ich kaum,
Weiß auch nicht,
was sie gesprochen.
Manchmal ist mir,
als berühren
Ihre Lippen meinen
Mund -
Bis in meiner Seele
Grund
Kann ich dann die
Flammen spüren.
212.ANH YÊU LÀN DA TRẮNG
Anh yêu làn da trắng
Yêu tâm hồn dịu
dàng
Đôi mắt to, vầng
trán
Dưới mái tóc đen
huyền.
Anh đi khắp thế
gian
Tìm một người như
em
Và bây giờ tìm thấy
Em thật xứng với
anh.
Em tìm thấy trong
anh
Những thứ mà em cần
Em yêu anh rồi bỏ
Điều đó vốn lẽ thường.
Ich
liebe solche weiße Glieder
Ich liebe solche
weiße Glieder,
Der zarten Seele
schlanke Hülle,
Wildgroße Augen und
die Stirne
Umwogt von
schwarzer Lockenfülle!
Du bist so recht
die rechte Sorte,
Die ich gesucht in
allen Landen;
Auch meinen Wert
hat euresgleichen
So recht zu
würdigen verstanden.
Du hast an mir den
Mann gefunden,
Wie du ihn
brauchst. Du wirst mich reichlich
Beglücken mit
Gefühl und Küssen,
Und dann verraten,
wie gebräuchlich.
213.MÙA XUÂN VỀ TRƯỚC
NGÕ
Mùa xuân về trước
ngõ
Anh vẫn đợi vẫn chờ
Cả đất trời bừng nở
Giống như một vườn
hoa.
Có em ngồi bên anh
Khi xe vừa lăn bánh
Em nhìn anh trìu mến
Tim em đập rộn
ràng.
Cả đất trời ngát
hương!
Chuỗi ngọc xanh lấp
lánh!
Những nụ hoa màu trắng
Trên cây cũng vui mừng.
Những bông hoa ngước
lên
Nhìn người em xinh
đẹp
Và anh chàng hạnh
phúc –
Người đó chính là
anh.
Hạnh phúc vốn qua
nhanh
Mai lưỡi liềm sẽ cắt
Xuân yêu thương sẽ
chết
Và em sẽ phụ tình.
Der
Frühling schien schon an dem Tor
Der Frühling schien
schon an dem Tor
Mich freundlich zu
erwarten.
Die ganze Gegend
steht im Flor
Als wie ein
Blumengarten.
Die Liebste sitzt
an meiner Seit
Im rasch
hinrollenden Wagen;
Sie schaut mich an
voll Zärtlichkeit,
Ihr Herz, das fühl
ich schlagen.
Das trillert und
duftet so sonnenvergnügt!
Das blinkt im
grünen Geschmeide!
Sein weißes
Blütenköpfchen wiegt
Der junge Baum mit
Freude.
Die Blumen schaun
aus der Erd hervor,
Betrachten,
neugierigen Blickes,
Das schöne Weib,
das ich erkor,
Und mich, den Mann
des Glückes.
Vergängliches
Glück! Schon morgen klirrt
Die Sichel über den
Saaten,
Der holde Frühling
verwelken wird,
Das Weib wird mich
verraten.
=Ở nước
ngoài (In der Fremde)
214.ĐỜI LÀ CUỘC
HÀNH TRÌNH
Đời là cuộc hành
trình
Không có đường trở
lại
Lời trong gió dịu
dàng
Bạn không sao hiểu
nổi.
Tình bỏ lại sau
lưng
Vẫn dịu dàng mời gọi:
– Quay về, hỡi người
thương
Em vẫn chờ anh đấy!
Nhưng bạn không thể
dừng
Đời không yên một
chỗ
Với người yêu đã từng
Bạn không còn gặp nữa.
Es
treibt dich fort von Ort zu Ort
Es treibt dich fort
von Ort zu Ort,
Du weißt nicht mal
warum;
Im Winde klingt ein
sanftes Wort,
Schaust dich
verwundert um.
Die Liebe, die
dahinten blieb,
Sie ruft dich sanft
zurück:
O komm zurück, ich
hab dich lieb,
Du bist mein einzges
Glück!
Doch weiter,
weiter, sonder Rast,
Du darfst nicht
stillestehn;
Was du so sehr
geliebet hast,
Sollst du nicht
wiedersehn.
215.HÔM NAY SAO BẠN
BUỒN
Hôm nay sao bạn buồn
Lâu nay đâu có thế!
Nước mắt rơi trên
má
Và tiếng thổn thức
lòng.
Hay bạn nhớ quê
hương
Đã mờ trong sương vắng?
Hay bạn đang vui sướng
Trong đất nước của
mình.
Hay nhớ người yêu
thương
Đôi khi bạn nổi giận
Nhưng nàng vẫn
ngoan ngoãn
Và bạn vội làm
lành?
Hay nhớ những anh
em
Trong những ngày hoạn
nạn?
Khi bờ môi câm nín
Nhưng ý nghĩ ngập
lòng.
Hay nhớ mẹ, nhớ em?
Đã từng rất thân ái
Tôi nghĩ rằng điều ấy
Sẽ tan chảy như
băng.
Hay bạn nhớ khu vườn
Chim chóc và cây cối
Những ước mơ ngày ấy
Giờ bạn vẫn còn
mong?
Muộn rồi. Đã đến
đêm
Trước mặt con đường
tuyết
Than ôi! Tôi vội mặc
Quần áo để lên đường.
Du bist
ja heut so grambefangen
Du bist ja heut so
grambefangen,
Wie ich dich lange
nicht geschaut!
Es perlet still von
deinen Wangen,
Und deine Seufzer
werden laut.
Denkst du der
Heimat, die so ferne,
So nebelferne dir
verschwand?
Gestehe mirs, du
wärest gerne
Manchmal im teuren
Vaterland.
Denkst du der Dame,
die so niedlich
Mit kleinem Zürnen
dich ergötzt?
Oft zürntest du,
dann ward sie friedlich,
Und immer lachtet
ihr zuletzt.
Denkst du der
Freunde, die da sanken
An deine Brust, in
großer Stund?
Im Herzen stürmten
die Gedanken,
Jedoch verschwiegen
blieb der Mund.
Denkst du der
Mutter und der Schwester?
Mit beiden standest
du ja gut.
Ich glaube gar, es
schmilzt, mein Bester,
In deiner Brust der
wilde Mut!
Denkst du der Vögel
und der Bäume
Des schönen
Gartens, wo du oft
Geträumt der Liebe
junge Träume,
Wo du gezagt, wo du
gehofft?
Es ist schon spät.
Die Nacht ist helle,
Trübhell gefärbt
vom feuchten Schnee.
Ankleiden muß ich
mich nun schnelle
Und in Gesellschaft
gehn. O weh!
216.TÔI TỪNG CÓ MỘT
QUÊ HƯƠNG XINH ĐẸP
Tôi từng có một quê
hương xinh đẹp
Trên đồi cao
nghiêng bóng những cây sồi
Và những cành hoa
tím vẫy chào tôi
Nhưng đấy chỉ là giấc
mơ ngày trước.
Người hôn tôi và
nói bằng tiếng Đức
(Liệu bạn có tin
tôi nói điều này
Ngọt ngào biết bao)
lời: “Ta yêu người!”
Nhưng đấy chỉ là giấc
mơ ngày trước.
Ich
hatte einst ein schönes Vaterland
Ich hatte einst ein
schönes Vaterland.
Der Eichenbaum
Wuchs dort so hoch,
die Veilchen nickten sanft.
Es war ein Traum.
Das küßte mich auf
deutsch, und sprach auf deutsch
(Man glaubt es
kaum,
Wie gut es klang)
das Wort: »ich liebe dich!«
Es war ein Traum.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét