237.VẾT THƯƠNG HẠNH PHÚC
Khi có em trong
tay!
Một niềm vui hạnh
phúc
Trong lòng tôi tràn
ngập
Những mơ ước diệu kỳ.
Khi có em trong
tay!
Tôi hôn lên mái tóc
Mái tóc vàng tuyệt
đẹp
Buông xõa trên vai
này.
Khi có em trong
tay!
Tôi tin rằng hiện
thực
Cõi thiên đường hạnh
phúc
Ngay trên mặt đất
này.
Nhưng như Thánh ngờ
vực!
Tôi còn nghi điều
này
Khi chưa đặt ngón
tay
Vào vết thương hạnh
phúc.
____________
*Thánh ngờ vực (Thomas)
– tức Thánh Tô-ma tông đồ hay còn gọi là Tô-ma đa nghi hoặc Đi-đi-mô (Didymos).
Là một trong 12 tông đồ của Giêsu, Ngài không tin bất cứ điều gì khi không chỉ
nhìn tận mặt mà còn phải sờ tận tay (Giăng, 20: 25-28).
Der
Ungläubige
Du wirst in meinen
Armen ruhn!
Von Wonnen sonder
Schranken
Erbebt und schwillt
mein ganzes Herz
Bei diesem
Zaubergedanken.
Du wirst in meinen
Armen ruhn!
Ich spiele mit den
schönen
Goldlocken! Dein
holdes Köpfchen wird
An meine Schultern
lehnen.
Du wirst in meinen
Armen ruhn!
Der Traum will
Wahrheit werden,
Ich soll des
Himmels höchste Lust
Hier schon genießen
auf Erden.
O, heil’ger Thomas!
Ich glaub’ es kaum!
Ich zweifle bis zur
Stunde,
Wo ich den Finger
legen kann
In meines Glückes
Wunde.
238.HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
Phụ nữ như bọ chét
Nhiều bọ chét – ngứa
nhiều
Âm thầm chịu đớn
đau
Chẳng còn cách nào
khác.
Họ trả thù tinh
khôn
Thức giấc trong đêm
vắng
Bạn ôm nàng âu yếm
Nàng với bạn – quay
lưng.
Zum
Hausfrieden
Viele Weiber, viele
Flöhe,
Viele Flöhe, vieles
Jucken –
Thun sie heimlich
dir ein Wehe,
Darfst du dennoch
dich nicht mucken.
Denn sie rächen,
schelmisch lächelnd,
Sich zur Nachtzeit
– Willst du drücken
Sie an’s Herze,
lieberöchelnd,
Ach, da dreh’n sie
dir den Rücken.
239.BIẾT VỀ ĐÂU LÚC
NÀY?
Biết về đâu lúc này
Hay lại về nước Đức?
Nhưng lý trí dứt
khoát
Thầm thì bên tai
tôi:
“Dù chiến tranh
không còn
Tòa án binh còn đó
Biết bao người bị xử
Ít nhiều có liên
quan”.
Điều này thật khó
chịu
Xử bắn hoặc bắt
giam
Tôi chẳng phải anh
hùng
Cũng không làm gì xấu.
Tôi muốn sang nước
Anh
Nhưng có điều ở đó
Là mùi hương của họ
Sẽ làm tôi buồn
nôn.
Hay sẽ vượt đại
dương
Đi thuyền sang nước
Mỹ
Ai chẳng mong xứ sở
Tự do và giàu sang.
Có điều tôi ngại
ngùng
Là người nhai thuốc
lá
Và mọi nơi có thể
Nhổ nước bọt ra đường.
Nước Nga cũng dễ
thương
Có thể là an ủi
Nhưng tôi không chịu
nổi
Roi quất của mùa
đông.
Tôi nhìn vào trời
đêm
Giữa sao trời vô khối
Nhưng tôi không tìm
thấy
Ngôi sao của riêng
mình.
Giống như một mê
cung
Của sao trời vô số
Giữa cuộc đời trần
thế
Tôi đánh mất con đường.
Jetzt
wohin?
Jetzt wohin? Der
dumme Fuß
Will mich gern nach
Deutschland tragen;
Doch es schüttelt
klug das Haupt
Mein Verstand und
scheint zu sagen:
Zwar beendigt ist
der Krieg,
Doch die
Kriegsgerichte blieben,
Und es heißt, du
habest einst
Viel Erschießliches
geschrieben.
Das ist wahr,
unangenehm
Wär’ mir das
Erschossen-werden;
Bin kein Held, es
fehlen mir
Die pathetischen
Geberden.
Gern würd’ ich nach
England geh’n,
Wären dort nicht
Kohlendämpfe
Und Engländer –
schon ihr Duft
Giebt Erbrechen mir
und Krämpfe.
Manchmal kommt mir
in den Sinn
Nach Amerika zu
segeln,
Nach dem großen
Freiheitstall,
Der bewohnt von
Gleichheits-Flegeln –
Doch es ängstet
mich ein Land,
Wo die Menschen
Tabak käuen,
Wo sie ohne König
kegeln,
Wo sie ohne
Spuknapf speien.
Rußland, dieses
schöne Reich,
Würde mir
vielleicht behagen,
Doch im Winter
könnte ich
Dort die Knute
nicht ertragen.
Traurig schau ich
in die Höh’,
Wo viel tausend
Sterne nicken –
Aber meinen eignen
Stern
Kann ich nirgends
dort erblicken.
Hat im güldnen
Labyrinth
Sich vielleicht
verirrt am Himmel,
Wie ich selber mich
verirrt
In dem irdischen
Getümmel. –
240.MỘT KHÚC CA XƯA
Em đã chết rồi, em
có biết không
Ánh lửa bừng không
còn trong đôi mắt
Trên đôi môi hồng
giờ đây tái nhợt
Em chết rồi, em đã
chết rồi em.
Trong đêm mùa hè
đáng sợ mình anh
Anh tự tay mình
mang em ra mộ
Chim sơn ca đã hót
lên buồn bã
Những ngôi sao nức
nở giữa trời đêm.
Anh đưa em đi qua một
khu rừng
Có những lời nguyện
cầu trong đêm vắng
Những cây thông mặc
áo choàng đen đứng
Đọc những lời cầu
nguyện nhớ về em.
Khi đến gần hồ nước,
một đám đông
Những tiên nữ kết
vòng tròn nhảy múa
Bỗng dừng lại, vẻ mặt
buồn khôn tả
Và lâm ly thống thiết
để chia buồn.
Còn khi bên hố huyệt
để chôn em
Mặt trăng cũng từ
trời cao ghé xuống
Trăng bày tỏ… thổn
thức và cầu nguyện
Từ xa xa vọng lại
tiếng đồng chung.
Altes
Lied
Du bist gestorben
und weißt es nicht,
Erloschen ist dein
Augenlicht,
Erblichen ist dein
rothes Mündchen,
Und du bist todt,
mein todtes Kindchen.
In einer schaurigen
Sommernacht
Hab’ ich dich
selber zu Grabe gebracht;
Klaglieder die
Nachtigallen sangen,
Die Sterne sind mit
zur Leiche gegangen.
Der Zug, der zog
den Wald vorbei,
Dort wiederhallt
die Litaney;
Die Tannen, in
Trauermänteln vermummet,
Sie haben
Todtengebete gebrummet.
Am Weidensee
vorüber ging’s,
Die Elfen tanzten
inmitten des Ring’s;
Sie blieben
plötzlich stehn und schienen
Uns anzuschaun mit
Beileidsmienen.
Und als wir kamen
zu deinem Grab,
Da stieg der Mond
vom Himmel herab.
Er hielt eine Rede.
Ein Schluchzen und Stöhnen,
Und in der Ferne
die Glocken tönen.
241.VẬT BẢO ĐẢM
Tình yêu bảo vị thần
Rằng cần vật bảo đảm
Trước khi dâng hiến
tình
Bởi đời này khó lắm.
Vị thần kia mỉm cười
“Mọi thứ đều thay đổi
Em là người cho vay
Đưa người ta vào bẫy.
Ta có cây đàn lia
Mà đàn bằng vàng thật
Đem đổi sẽ có được
Bao nhiêu nụ hôn
kia?”
Solidität
Liebe sprach zum
Gott der Lieder,
Sie verlange
Sicherheiten
Ehe sie sich ganz
ergebe,
Denn es wären
schlechte Zeiten.
Lachend gab der
Gott zur Antwort:
Ja, die Zeiten sich
verändern,
Und du sprichst
jetzt, wie ein alter
Wuchrer, welcher
leiht auf Pfändern.
Ach, ich hab’ nur
eine Leier,
Doch sie ist von
gutem Golde.
Wie viel Küsse
willst du borgen
Mir darauf, o meine
Holde?
242.DÒNG ĐỜI
Nếu bạn có rất nhiều
Trời còn cho nhiều
nữa.
Nếu có rất ít ỏi
Cái cuối cũng đi
tiêu.
Nếu quả bạn rất
nghèo
Thì chúng tôi chôn
bạn
Đời này chỉ đáng sống
Người có gì đấy
thôi.
Weltlauf
Hat man viel, so
wird man bald
Noch viel mehr dazu
bekommen.
Wer nur wenig hat,
dem wird
Auch das Wenige
genommen.
Wenn du aber gar
nichts hast,
Ach, so lasse dich
begraben –
Denn ein Recht zum
Leben, Lump,
Haben nur die etwas
haben.
243.LỜI BÁO TRƯỚC
Hỡi linh hồn bất tử,
hãy dè chừng
Để tránh cho ngươi
những phiền muộn nhé
Khi ngươi từ giã cuộc
đời trần thế
Sẽ theo đường vào
cái chết, bóng đêm.
Khi ngươi bay lên đến
trước cổng vàng
Ở đó có những đạo
binh thiên quốc
Người ta chỉ hỏi
ngươi về công việc
Chứ không cần chức
tước hoặc danh xưng.
Đôi giày của ngươi
còn dính bụi trần
Hãy bỏ lại ở phía
ngoài cánh cổng
Rồi đi vào miền tự
do, tĩnh lặng
Giày dép mềm và tiếng
nhạc du dương.
Fromme
Warnung
Unsterbliche Seele,
nimm dich in Acht,
Daß du nicht
Schaden leidest,
Wenn du aus dem
Irdischen scheidest;
Es geht der Weg
durch Tod und Nacht.
Am goldnen Thore
der Hauptstadt des Lichts,
Da stehen die
Gottes-Soldaten;
Sie fragen nach
Werken und Thaten,
Nach Namen und Amt
fragt man hier nichts.
Am Eingang läßt der
Pilger zurück
Die stäubigen,
drückenden Schuhe –
Kehr’ ein, hier
findest du Ruhe,
Und weiche
Pantoffeln und schöne Musik.
244.NGƯỜI SẮP CHẾT
Khi ta chết sẽ nằm
trong đất bụi
Dưới mộ phần, tôi
thấy sợ biết bao
Bởi vì dù có được hồi
sinh lại
Tôi phải nằm chờ ở
đó rất lâu.
Một khi ánh sáng đời
chưa tắt hẳn
Khi con tim vẫn còn
đập rộn ràng
Tôi chỉ mong giá
như được một lần
Vị ngọt ngào của
tình yêu lại nếm.
Một cô tóc vàng dịu
dàng âu yếm
Và ánh nhìn tĩnh lặng
tựa ánh trăng
Sắp chết rồi, có lẽ
đã không cần
Cô tóc đen như mặt trời
nóng bỏng.
Ai còn trẻ trung
tràn trề sức sống
Thì người này cần đến
sự đam mê
Cần sự cuồng điên,
đập phá, chửi thề
Cần hai người yêu
nhau như tra tấn.
Tôi không còn trẻ,
không còn khỏe mạnh
Không cần yêu say đắm
như ngày nào
Tôi chỉ muốn yêu một
cách tĩnh lặng
Muốn hạnh phúc
không một chút ồn ào.
Der
Abgekühlte
Und ist man todt,
so muß man lang
Im Grabe liegen;
ich bin bang,
Ja, ich bin bang,
das Auferstehen
Wird nicht so
schnell von Statten gehen.
Noch einmal, eh’
mein Lebenslicht
Erlöschet, eh’ mein
Herze bricht –
Noch einmal möcht’
ich vor dem Sterben
Um Frauenhuld
beseligt werben.
Und eine Blonde
müßt’ es sein,
Mit Augen sanft wie
Mondenschein –
Denn schlecht
bekommen mir am Ende
Die wild brünetten
Sonnenbrände.
Das junge Volk voll
Lebenskraft
Will den Tumult der
Leidenschaft,
Das ist ein Rasen,
Schwören, Poltern
Und wechselseit’ges
Seelenfoltern!
Unjung und nicht
mehr ganz gesund,
Wie ich es bin zu
dieser Stund,
Mögt’ ich noch
einmal lieben, schwärmen
Und glücklich sein
– doch ohne Lärmen.
245.TÔI MONG BẠN TẬN
HƯỞNG
Tôi mong bạn tận hưởng
Hết lạc thú trần
gian!
Bạn không sợ mũi
tên
Ai thích thì cứ bắn.
Hạnh phúc thì chóng
vánh
Cần phải nắm bắt
thôi
Đừng xây nhà trên đồi
Mà xây trong thung
lũng.
O laß
nicht ohne Lebensgenuß
O laß nicht ohne
Lebensgenuß
Dein Leben
verfließen!
Und bist du sicher
vor dem Schuß,
So laß sie nur
schießen.
Fliegt dir das
Glück vorbei einmal,
So fass’ es am
Zipfel.
Auch rath’ ich dir,
baue dein Hüttchen im Thal
Und nicht auf dem
Gipfel.
THƠ TUYỂN 1812 – 1827 (Nachgelesene
Gedichte 1812 – 1827)
246.KHI EM NGỒI BÊN
ANH
Khi em ngồi bên anh
Con tim này hớn hở
Anh nghĩ mình giàu
có
Mua được cả thế
gian.
Nhưng khi em từ giã
Trong tim anh tối
tăm
Giàu có đã không
còn
Anh trở nên nghèo
khó.
Wenn
ich bei meiner Liebsten bin
Wenn ich bei meiner
Liebsten bin
Dann geht das Herz
mir auf
Dann dünk ich mich
reich in meinem Sinn
Und frag: ob die
Welt zu Kauf?
Doch wenn ich
wieder scheiden tu
Aus ihrem
Schwanenarm
Dann geht das Herz
mir wieder zu
Und ich bin
bettelarm.
247.TA ƯỚC AO NHỮNG
BÀI HÁT CỦA TA
Ta ước ao những bài
hát của ta
Sẽ trở thành những
cánh hoa êm ái
Để ta đem gửi cho
người bạn gái
Rồi nàng đưa môi
hôn những bài ca.
Ta ước ao những bài
hát của ta
Cũng biết cách hôn
người ta đằm thắm
Ta gửi bài ca một
cách thầm lặng
Cho người dấu yêu
nhất của đời ta.
Ta ước ao những bài
hát của ta
Sẽ thành những quả
đậu non nho nhỏ
Để ta đem nấu món
súp đậu đũa
Ngon như chưa ai từng
nấu bao giờ.
Ich
wollte, meine Lieder
Ich wollte, meine
Lieder
Das wären
Blümelein:
Ich schickte sie zu
riechen
Der
Herzallerliebsten mein.
Ich wollte, meine
Lieder
Das wären Küsse
fein:
Ich schickt sie
heimlich alle
Nach Liebchens
Wängelein.
Ich wollte, meine
Lieder
Das wären Erbsen
klein:
Ich kocht eine
Erbsensuppe,
Die sollte köstlich
sein.
248.VỚI NHỮNG CÔ
GÁI ĐẦN
Với những cô gái đần,
tôi thường nghĩ
Khó mà làm ăn với kẻ
ngu đần
Nhưng khi tôi gặp
những cô thông minh
Thì hiểu rằng còn
khó hơn thế nữa.
Người thông minh
thì lại quá khôn ngoan
Nhiều câu hỏi làm
tôi mất kiên nhẫn
Và khi tôi hỏi họ
điều quan trọng
Thì họ mỉm cười một
cách tinh ranh.
Mit
dummen Mädchen, hab ich gedacht
Mit dummen Mädchen,
hab ich gedacht,
Nichts ist mit
dummen anzufangen;
Doch als ich mich
an die klugen gemacht,
Da ist es mir noch
schlimmer ergangen.
Die klugen waren
mir viel zu klug,
Ihr Fragen machte
mich ungeduldig,
Und wenn ich selber
das Wichtigste frug,
Da blieben sie
lachend die Antwort schuldig.
249.DAN DÍU VỚI ĐÀN
BÀ
Dan díu với đàn bà
bạn hãy nên khiêm tốn
Hãy nhớ tiết kiệm lời
và đừng vội nói tên
Bởi nếu nàng tốt – thì
cho nàng giữ kín
Còn nếu không – thì
cũng giữ cho mình.
Hast du
vertrauten Umgang mit Damen
Hast du vertrauten
Umgang mit Damen,
Schweig,
Freundchen, stille und nenne nie Namen:
Um ihrentwillen,
wenn sie fein sind,
Um deinetwillen,
wenn sie gemein sind.
250.NHỮNG BÔNG HOA
VƯƠN MÌNH
Những bông hoa vươn
mình
Phía ánh mặt trời
hướng đến
Và sông gửi từng
con sóng
Về phía biển xanh.
Còn tôi, những bài
ca của mình
Tôi đem gửi cho người
tôi yêu mến
Cả nước mắt, cả những
lời đau đớn
Bài ca ơi, hãy mang
đến cho nàng.
Es
schauen die Blumen alle
Es schauen die
Blumen alle
Zur leuchtenden
Sonne hinauf;
Es nehmen die
Ströme alle
Zum leuchtenden
Meere den Lauf.
Es flattern die
Lieder alle
Zu meinem
leuchtenden Lieb;
Nehmt mit meine
Tränen und Seufzer,
Ihr Lieder,
wehmütig und trüb!
251.ANH KHÔNG TIN
THIÊN ĐÀNG
Anh không tin thiên
đàng
Không tin lời linh
mục
Chỉ tin đôi mắt em
–
Là bầu trời hạnh
phúc.
Anh không tin Chúa
Trời
Không tin lời linh mục
Chỉ trái tim em
thôi
Không thánh thần
nào khác.
Anh không tin linh
hồn
Bị đày nơi địa ngục
Chỉ tin đôi mắt em
Và con tim tai ác.
Ich
glaub nicht an den Himmel
Ich glaub nicht an
den Himmel,
Wovon das Pfäfflein
spricht;
Ich glaub nur an
dein Auge,
Das ist mein
Himmelslicht.
Ich glaub nicht an
den Herrgott,
Wovon das Pfäfflein
spricht;
Ich glaub nur an
dein Herze,
'nen andern Gott
hab ich nicht.
Ich glaub nicht an
den Bösen,
An Höll und
Höllenschmerz;
Ich glaub nur an
dein Auge,
Und an dein böses
Herz.
252.NHỮNG BÔNG HOA
NHỎ XINH
Những bông hoa nhỏ
xinh
Cho ta được làm
lành
Hãy chuyện trò vui
vẻ
Cùng cười, cùng hát
lên.
Này em, hoa chuông
trắng
Và màu đỏ, hoa hồng
Cẩm chướng, nhiều vết
đốm
Đừng quên tôi, màu
xanh.
Hãy đến đây, các em
Tôi vui mừng chào
đón
Nhưng tôi không tiếp
nhận
Cỏ mộc tê trên đồng.
Wir
wollen jetzt Frieden machen
Wir wollen jetzt
Frieden machen,
Ihr lieben
Blümelein.
Wir wollen
schwatzen und lachen,
Und wollen uns
wieder freun.
Du weißes
Maienglöckchen,
Du Rose mit rotem
Gesicht,
Du Nelke mit bunten
Fleckchen,
Du blaues
Vergißmeinnicht!
Kommt her, ihr
Blumen, jede
Soll mir willkommen
sein -
Nur mit der
schlimmen Resede
Laß ich mich nicht
mehr ein.
253.TÔI MUỐN ĐI VÀO
RỪNG
Tôi muốn đi ngay
vào chốn rừng xanh
Xem hoa nở và nghe
sơn ca hót
Bởi vì sau này nằm
dưới mộ phần
Đất sẽ lấp lên tai
và lên mắt
Sẽ không còn nghe
tiếng sơn ca hót
Không nhìn ra hoa đẹp
nở tưng bừng.
Ich
will mich im grünen Wald ergehn
Ich will mich im
grünen Wald ergehn,
Wo Blumen sprießen
und Vögel singen;
Denn wenn ich im
Grabe einst liegen werde,
Ist Aug und Ohr
bedeckt mit Erde,
Die Blumen kann ich
nicht sprießen sehn,
Und Vögelgesänge
hör ich nicht klingen.
254.ANH ĐÃ TỪNG Ở
NƠI XA XÔI LẮM
Anh đã từng ở nơi
xa xôi lắm*
Còn bây giờ cách em
mấy bước chân
Một ý nghĩ lởn vởn
trong đầu anh:
Chao ôi! Em đã
thành cô hàng xóm.
____________
*Anh đã từng ở nơi
xa xôi lắm – ý Heine nói đến quãng thời gian ba năm sống tại Hamburg ở nhà ông
chú Solomon Heine và sau đó trở về lại Düsseldorf.
Ich
wohnte früher weit von hier
Ich wohnte früher
weit von hier,
Zwei Häuser trennen
mich jetzt von Dir.
Es kam mir oft
schon in den Sinn:
Ach! wärst Du meine
Nachbarin.
255.GỬI SOLOMON
HEINE
Cả nỗi buồn và đau
đớn của tôi
Tôi đã đem dồn hết
vào cuốn sách
Và khi từng trang
sách này bạn đọc
Là bạn đang đi vào
trái tim này.
An
Salomon Heine
Meine Qual und
meine Klagen
Hab ich in dies
Buch gegossen,
Und wenn du es
aufgeschlagen,
Hat sich dir mein
Herz erschlossen.
256.NGÀY ĐÊM TÔI
LÀM THƠ
Ngày đêm tôi làm
thơ
Nhưng mà chẳng được
gì
Chìm đắm trong hòa
hợp
Thì cũng chỉ hư vô.
Tag und
Nacht hab ich gedichtet
Tag und Nacht hab
ich gedichtet,
Und hab doch nichts
ausgerichtet;
Bin in Harmonien
geschwommen,
Und bin doch zu
nichts gekommen.
257.TA YÊU MÀY CÚN Ạ
Ta yêu mày, cún ạ
Chắc mi hiểu điều
này
Ta cho mi ăn kẹo
Mi vội liếm vào
tay.
Cả trong ruột,
ngoài da
Mi đúng là con chó
Còn bè bạn của ta
Họ giả vờ nhiều
quá.
Daß ich
dich liebe, o Möpschen
Daß ich dich liebe,
o Möpschen,
Das ist dir
wohlbekannt.
Wenn ich mit Zucker
dich füttre,
So leckst du mir
die Hand.
Du willst auch nur
ein Hund sein,
Und willst nicht
scheinen mehr;
All meine übrigen
Freunde
Verstellen sich zu
sehr.
258.BẠN HAY THÙ,
YÊU HAY GHÉT
Bạn hay thù, yêu
thương hay ghét bỏ
Những thứ kia tôi nếm
trải hết rồi
Nhưng nếu có gì còn
bám vào tôi
Thì tôi vẫn là tôi,
như vốn có.
Lieben
und Hassen, Hassen und Lieben
Lieben und Hassen,
Hassen und Lieben,
Ist alles über mich
hingegangen;
Doch blieb von
allem nichts an mir hangen,
Ich bin der
allerselbe geblieben.
259.GỬI EDOM*
Hàng nghìn năm ta
đã từng chịu đựng
Vì mối tình huynh đệ
giữa chúng ta
Bạn từng chịu đựng
hơi thở của tôi
Còn tôi chịu đựng
cơn điên của bạn.
Trong bóng tối của
một ngày xa vắng
Khi đó bạn không
làm chủ được mình
Hoặc có thể là chỉ
vì đức tin
Bạn làm tôi chảy
máu và đau đớn.
Bây giờ tình bạn của
ta bền vững
Và sẽ còn bền chặt
theo tháng năm
Bởi vì tôi cũng bắt
đầu nổi điên
Hóa ra là càng hợp
hơn với bạn.
_____________
*Đây là bài thơ mà
Heine gửi cho người bạn Moses Moser (1797 – 1838) của mình. Edom, tức Esau
(Sáng Thế ký, 25: 30) là nhân vật trong Kinh Thánh dùng để chỉ tình yêu ghét giữa
những người anh em.
An
Edom!
Ein Jahrtausend
schon und länger,
Dulden wir uns
brüderlich,
Du, du duldest, daß
ich atme,
Daß du rasest,
dulde Ich.
Manchmal nur, in
dunkeln Zeiten,
Ward dir wunderlich
zu Mut,
Und die
liebefrommen Tätzchen
Färbtest du mit
meinem Blut!
Jetzt wird unsre
Freundschaft fester,
Und noch täglich
nimmt sie zu;
Denn ich selbst
begann zu rasen,
Und ich werde fast
wie Du.
260.NHỮNG BÀI HÁT CỦA
TÔI
(Brich aus in
lauten Klagen)
Những bài hát của
tôi
Xin các người lên
tiếng
Từ lâu giữa ngực
này
Tôi giữ trong im lặng.
Hãy đến những đôi
tai
Rồi vào tim trong
ngực
Một nỗi đau tràn ngập
Đã hàng ngàn năm
nay.
Cả già trẻ đều khóc
Cả những người chết
rồi
Phụ nữ và hoa tươi
Sao trên trời cũng
khóc.
Và tất cả nước mắt
Đều chảy về phương
Nam
Chảy ra và đổ hết
Vào dòng sông Gioóc
đan.
Brich
aus in lauten Klagen
Brich aus in lauten
Klagen,
Du düstres Martyrerlied,
Das ich so lang
getragen
Im flammenstillen
Gemüt!
Es dringt in alle
Ohren,
Und durch die Ohren
ins Herz;
Ich habe gewaltig
beschworen
Den tausendjährigen
Schmerz.
Es weinen die
Großen und Kleinen,
Sogar die kalten
Herrn,
Die Frauen und Blumen
weinen,
Es weinen am Himmel
die Stern!
Und alle die Tränen
fließen
Nach Süden, im
stillen Verein,
Sie fließen und
ergießen
Sich all in den
Jordan hinein.
261.NGƯỜI BỘI GIÁO
Nhiệt huyết thời tuổi
trẻ
Sao vội vàng qua
nhanh
Giờ trong máu lạnh
lùng
Bạn hững hờ trước
Chúa.
Bạn hướng lên thập
tự
Mà trong lòng coi
thường
Chỉ vừa mới mấy tuần
Mà đổi thay tất cả.
Cứ đọc đi sẽ rõ
Haller, Burke,
Schlegel
Hôm qua là anh hùng
Nay thành kẻ chống
trả.
_______________
*Karl Ludwig von
Haller (1768 – 1854) – nhà chính trị, lý thuyết gia của phong trào Phục hưng Thụy
Sĩ, năm 1820 chuyển sang đạo Cơ đốc. Edmund Burke (1729 – 1797) – nhà chính trị,
nhà văn Anh, người phản đối Cách mạng Pháp. Friedrich Schlegel (1772 – 1829) –
nhà văn, nhà thơ Đức, thời trẻ tham gia câu lạc bộ Gia-cô-banh (Jacobins) của
Pháp sau đó lại quay về ca ngợi Đức, năm 1808 cải đạo.
Einem
Abtrünnigen
O des heilgen
Jugendmutes!
O, wie schnell bist
du gebändigt!
Und du hast dich,
kühlern Blutes,
Mit den lieben
Herrn verständigt.
Und du bist zu Kreuz
gekrochen,
Zu dem Kreuz, das
du verachtest,
Das du noch vor
wenig Wochen
In den Staub zu
treten dachtest!
O, das tut das
viele Lesen
Jener Schlegel,
Haller, Burke -
Gestern noch ein
Held gewesen,
Ist man heute schon
ein Schurke.
262.TÔI KIẾM TÌNH YÊU
(Ich habe die süße
Liebe gesucht)
Tôi kiếm tình yêu
ngọt ngào dễ thương
Lại tìm ra sự hận
thù cay đắng
Tôi thở dài và tôi
nguyền rủa hắn
Thì máu chảy từ
ngàn vạn vết thương.
Tôi đã thành thật cả
ngày lẫn đêm
Để cùng với lũ súc
sinh kết bạn
Khi đã nghiên cứu kỹ
càng về chúng
Thì tôi viết ra
“Ratcliff William”.
____________
*William Ratcliff –
là một vở kịch của Heine.
Ich
habe die süße Liebe gesucht
Ich habe die süße
Liebe gesucht,
Und hab den bittern
Haß gefunden,
Ich habe geseufzt,
ich habe geflucht,
Ich habe geblutet
aus tausend Wunden.
Auch hab ich mich
ehrlich Tag und Nacht
Mit Lumpengesindel
herumgetrieben,
Und als ich all
diese Studien gemacht,
Da hab ich ruhig
den Ratcliff geschrieben.
THƠ TUYỂN 1828 – 1844
(Nachgelesene Gedichte 1828 – 1844)
263.ÁNH TRĂNG NGỜI
TRÊN BIỂN
Ánh trăng ngời trên
biển
Tiếng sóng vỗ rì
rào
Giữa lòng tôi trĩu
nặng
Vì câu chuyện thuở
nào.
Chuyện về những
thành phố
Chìm đắm giữa đại
dương
Dường như còn nghe
rõ
Lời cầu nguyện vang
lên.
Lời nguyện và tiếng
chuông
Không giúp gì được
cả
Ai đã một lần chôn
Không còn quay về nữa.
Im
Mondenglanze ruht das Meer
Im Mondenglanze
ruht das Meer,
Die Wogen murmeln
leise;
Mir wird das Herz
so bang und schwer,
Ich denk der alten
Weise,
Der alten Weise,
die uns singt
Von den verlornen
Städten,
Wo aus dem
Meeresgrunde klingt
Glockengeläut und
Beten -
Das Läuten und das
Beten, wißt,
Wird nicht den
Städten frommen,
Denn was einmal
begraben ist,
Das kann nicht
wiederkommen.
264.NHỮNG ĐAM MÊ MỘT
THUỞ
Những đam mê từng một
thuở cháy lên
Chúng về đâu khi
tim không còn nữa?
Chúng về nơi từng
ra đi ở đó
Là địa ngục, nơi
thiêu đốt rủa nguyền.
Die
Liebesgluten, die so lodernd flammten
Die Liebesgluten,
die so lodernd flammten,
Wo gehn sie hin,
wenn unser Herz verglommen?
Sie gehn dahin,
woher sie einst gekommen,
Zur Hölle, wo sie
braten, die Verdammten.
265.MẮT LÀ NGÔI SAO
ĐẸP
“Mắt là ngôi sao đẹp!”
Anh nhớ một bài ca
Nghe ở Toskana
Khi ngồi bên bến nước.
Cô gái hát bài ca
Khi cô ngồi vá lưới
Ánh nhìn cô hướng tới
Và anh đã hôn cô.
Giờ anh ngồi bên em
Nhớ bài ca ngày ấy
Nhớ biển và cô gái…
Hãy để anh hôn em!
»Augen,
sterblich schöne Sterne!«
»Augen, sterblich
schöne Sterne!«
Also mag das
Liedchen klingen,
Das ich weiland in
Toskana
An dem Meere hörte
singen.
Eine kleine Dirne
sang es,
Die am Meere Netze
flickte;
Sah mich an, bis
ich die Lippen
An ihr rotes
Mündchen drückte.
An das Lied, an
Meer und Netze
Hab ich wieder
denken müssen,
Als ich dich zuerst
erblickte -
Doch nun muß ich
dich auch küssen.
266.NHỮNG BÀI HÁT
CON CON
Những bài hát con
con
Tôi tặng người yêu
mến
Tôi chắp thêm đôi
cánh
Để bay đến bên em.
Những bài hát con
con
Tìm chồng cho em
nhé
Chúng chạy đến với
mẹ
Qua thung lũng,
cánh đồng.
Moi người sẽ vui
lòng
Nghe những bài hát
đó
Khi những chàng
trai hú
Sẽ cảm thấy lâng
lâng.
Ai người hát trong
đêm
Khi người này buồn
bã
Thì sẽ yêu thích nó
Hơn bài hát của
mình.
Ich
mache die kleinen Lieder
Ich mache die
kleinen Lieder
Der
Herzallerliebsten mein,
Die heben ihr
klingend Gefieder
Und fliegen zu dir
hinein.
Es stammen die
kleinen Jungen
Vom schnalzenden
Herrn Gemahl,
Die kommen zu dir
gesprungen
Über Wiese, Busch
und Tal.
Die Leute so gerne
weilen
Bei meiner Lieder
Chor;
Doch bei der Jungen
Heulen
Sie halten sich zu
das Ohr.
Und der dies Lied
gesungen,
Der liegt allein in
der Nacht
Und hätte weit
lieber die Jungen,
Ach, als die Lieder
gemacht!
267.NGHE VANG NHƯ
CÂU HÁT
Nghe vang như câu
hát
Những gì tôi nghĩ
suy
Thần tình yêu, tôi
biết
Đấy là việc của
ngươi.
Bậc thầy trong nhà
hát
Nhà hát trái tim
này
Những gì tôi nghĩ
suy
Ngươi liền đem phổ
nhạc.
Es
erklingt wie Liedestöne
Es erklingt wie
Liedestöne
Alles, was ich denk
und fühl.
Ach! da hat der
kleine schöne
Liebesgott die Hand
im Spiel.
Der Maestro im
Theater
Meines Herzens ist
er jetzt;
Was ich fühl und
denke, hat er
Gleich schon in
Musik gesetzt.
268.HOA HỒNG VÀNG
THÌ CÓ NGHĨA GÌ ĐÂY?
Hoa hồng vàng thì
có nghĩa gì đây?
Đấy là vật lộn của
yêu và ghét
Ghét, đã đành, vẫn
làm khổ tình yêu
Nhưng yêu thì phải
yêu qua nước mắt.
Was
bedeuten gelbe Rosen?
Was bedeuten gelbe
Rosen?
Liebe die mit Ärger
kämpft,
Ärger der die Liebe
dämpft,
Lieben und sich
dabei erbosen.
269.BUỒN CƯỜI MÀ LẠI
ĐAU
Buồn cười mà lại
đau
Khi hai ta thừa nhận
Hai con tim yêu
nhau
Nhưng đầu không tin
tưởng.
Em yêu ơi có hiểu
Tình yêu trong tim
này?
Nàng lắc đầu, thầm
thĩ:
“Có trời biết yêu
ai!”
Wir
müssen zugleich uns betrüben
Wir müssen zugleich
uns betrüben
Und lachen, wenn
wir schaun,
Daß sich die Herzen
lieben
Und sich die Köpfe
nicht traun.
Fühlst du, mein
süßes Liebchen,
Wie liebend mein
Herz bewegt?
Sie schüttelt das
Köpfchen und flüstert:
»Gott weiß, für wen
es schlägt!«
270.ĐIỀU NÀY LÀM
CHO CON NGƯỜI HẠNH PHÚC
Điều này làm cho
con người hạnh phúc
Mà cũng làm cho người
ấy ngu đần
Khi có đến ba người
yêu xinh đẹp
Trong khi người này
chỉ có hai chân.
Tôi chạy đến một
người buổi sớm mai
Và với người thứ
hai khi đêm xuống
Còn người thứ ba với
tôi tự đến
Không hiểu sao lại
chỉ đến ban ngày.
Tôi phải chia tay với
cả ba người
Bởi vì tôi chỉ có
hai chân nhỏ
Tôi chỉ muốn đi về
miền thôn dã
Tận hưởng thiên
nhiên xinh đẹp mà thôi.
Das
macht den Menschen glücklich
Das macht den
Menschen glücklich,
Das macht den
Menschen matt,
Wenn er drei sehr
schöne Geliebte
Und nur zwei Beine
hat.
Der einen lauf ich
des Morgens,
Der andern des Abends
nach;
Die dritte kommt zu
mir des Mittags
Wohl unter mein
eignes Dach.
Lebt wohl, ihr drei
Geliebten,
Ich hab zwei Beine
nur,
Ich will in
ländlicher Stille
Genießen die schöne
Natur.
271.CHẠY TRỐN
Dưới ánh trăng sáng
tỏ
Nghe tiếng sóng rì
rào
Có hai người yêu
nhau
Trên một con thuyền
nhỏ.
– “Sao mặt em tê tái
Hở người anh yêu
thương!”
– “Anh yêu, anh biết
không
Bố em đuổi theo đấy”.
– “Ta sẽ chèo nhanh
vậy
Hở người anh yêu
thương!”
– “Anh nghe tiếng
hét không?
Bố em đang chửi đấy”.
– ‘Hãy giữ chặt mái
đầu
Người anh yêu
thương nhé!”
– “Anh yêu, em nghe
rõ
Giọt nước chảy vào
tai”.
– “Đôi chân anh tê
liệt
Ôi, người anh yêu
thương!”
– “Anh yêu, em muốn
được
Chết trong vòng tay
anh”.
Die
Flucht
Die Meeresfluten
blitzen,
Bestrahlt vom
Mondenschein.
Im schwanken Kahne
sitzen
Zwei Buhlen, die
schiffen allein.
»Du wirst ja blaß
und blasser,
Du Herzallerliebste
mein!« -
»Geliebter! dort
ruderts im Wasser,
Mein Vater holt uns
ein.« -
»Wir wollen zu
schwimmen versuchen,
Du Herzallerliebste
mein !« -
»Geliebter! ich hör
ihn schon fluchen,
Ich höre ihn toben
und schrein.« -
»Halt nur den Kopf
in die Höhe,
Du Herzallerliebste
mein!« -
»Geliebter! Das
Wasser, o wehe,
Dringt mir in die
Ohren hinein.« -
»Es werden steif
mir die Füße,
O Herzallerliebste
mein!« -
»Geliebter, der Tod
muß süße
In deinen Armen
sein.«