Christian Johann Heinrich Heine (13/12/1797 – 17/2/1856) – nhà thơ, nhà văn Đức, là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XIX. Tên tuổi của Heine đặt ngang hàng với Goethe, Schiller…
Tiểu sử:
Heinrich Heine sinh ở Düsseldorf, Đức trong gia đình một thương gia gốc Do Thái có bốn người con. Heine học ở các trường Đại học Göttingen, Bonn và Berlin, chịu ảnh hưởng của triết học Hegel. Năm 1825 nhận bằng tiến sĩ luật và hành nghề luật nhưng say mê văn chương, cả thơ ca lẫn văn xuôi. Tác phẩm đầu tay Những bức tranh du lịch (Reisebilder, nhiều tập, xuất bản trong các năm 1826, 1827, 1829, 1831) đã mang lại danh tiếng cho ông và tiếp đấу, ông đã có thể sống được bằng nghề văn. Thành công nаy cho phép Heine cộng tác lâu năm với một nhà xuất bản ở Hamburg. Thời gian nаy ông đi sang Anh tìm kiếm cảm hứng để viết tiếp các tập sau. Quyển thơ đầu tiên Những bài thơ (Gedichte), sáng tác năm 1821, về một tình yêu cuồng si với người em họ Amalie. Tình yêu này đã truyền cảm hứng cho ông viết nên những bài thơ tình hay nhất. Tập Quyển sách những bài ca (Buch der Lieder, 1827) là tuyển tập thơ đầu tiên có đầy đủ các bài thơ ông viết.
Năm 1831, Heine rời Đức sang Paris, Pháp và sống ở đó cho đến hết đời, ngoại trừ một lần trở lại Đức năm 1843. Ở Pháp, ông đã liên kết với nhóm chủ nghĩa xã hội không tưởng của Count Saint-Simon, người tuyên truyền một thiên đường theo chủ nghĩa quân bình không giai cấp dựa trên những người có tài thực sự. Dù sống ở Pháp nhưng ông sáng tác về nước Đức. Thập niên 1840 ông liên tục cho ra đời những tác phẩm nổi tiếng: Atta Troll: Giấc mộng đêm hè (Atta Troll: Ein Sommernachtstraum, 1847); Thơ Mới (Neue Gedichte, 1844); Nước Đức. Câu chuyện cổ mùa đông (Deutschland, ein Wintermrchen, 1844).
Những năm tháng cuối đời, Heine bị bệnh nằm liệt giường trong suốt 8 năm trời, tuy vậy ông vẫn tiếp tục sáng tác. Bằng chứng là nhiều tuyệt tác của ông được viết trong thời gian này như Romanzero, 1851; Gedichte 1853–1854… Heinrich Heine mất ngày 17 tháng 2 năm 1856 ở Paris, mai táng tại nghĩa trang Montmartre.
Heinrich Heine là người bà con có họ hàng xa với Karl Marx (1818 – 1883) – nhà triết học, nhà kinh tế, nhà văn, nhà thơ, người sáng lập chủ nghĩa Mác. Họ chơi thân với nhau và từng cộng tác với nhau trong một thời gian ngắn trong việc xuất bản tờ báo “Vorwärts” bằng tiếng Đức ở Paris. Chuyện kể rằng mỗi khi có điều gì xúc động, Marx thường trích dẫn bốn câu thơ của Heine:
Cô gái bên bờ biển
Đưa mắt nhìn hoàng hôn
Cô thở dài ngao ngán
Nhìn hoàng hôn sắp tàn.
(Das Fräulein stand am Meere
Und seufzte lang und bang,
Es rührte sie so sehre
Der Sonnenuntergang).
Karl Marx thường qua lại thăm ông cho đến ngày cuối đời. Chuyện kể rằng, một hôm người ta dọn dẹp lại căn phòng nơi Heine đang dưỡng bệnh, lúc này ông đã yếu lắm rồi. Một phụ nữ giúp việc đã bế ông từ giường lên xe lăn. Nhìn thấy Marx bước vào, Heine vẫn hóm hém nói đùa: “Anh bạn thân mến ạ, anh thấy đấy, cho đến lúc này tôi vẫn được phụ nữ bế trên tay”.
Thời Đức quốc xã lên nắm quyền ở Đức tác phẩm của Heine bị cấm (ngoại trừ mỗi bài thơ “Nàng Loreley” đã trở thành một bài hát dân gian và quá nổi tiếng), tượng đài của ông bị phá hủy. Tiếp đó là sách của ông, cũng như nhiều tác giả nổi tiếng khác có nguồn gốc Do Thái, bị thiêu đốt. Về điều này cũng như về thảm họa của dân tộc Do Thái thời Đức quốc xã, hai câu thơ của ông trong tác phẩm “Almansor” đã trở thành những lời tiên tri:
Đấy chỉ mới là bước khởi đầu mà thôi
Nơi người ta đốt sách, rồi họ sẽ đốt người.
(Das war ein Vorspiel nur, dort, wo man Bücher
Verbrennt, verbrennt man auch am Ende Menschen).
Heinrich Heine được coi là nhà thơ cuối cùng của “Chủ nghĩa lãng mạn” và là nhà thơ hàng đầu của phong trào này. Ông đã thành công trong việc chuyển hóa ngôn ngữ của đời thường thành ngôn ngữ văn chương, nâng tầm cho những ghi chép thông thường lên một hình thức nghệ thuật, mang lại cho tiếng Đức một vẻ nhẹ nhàng thanh lịch mà trước đó chưa từng có. Thơ của ông được các nhạc sĩ Franz Schubert, Robert Schumann, Richard Wagner… và nhiều nhạc sĩ nổi tiếng khác phổ nhạc. Với gần 10.000 nhạc phẩm đủ mọi thể loại, Heinrich Heine là nhà thơ có thơ được phổ nhạc nhiều nhất mọi thời đại.
Những tác phẩm chính:
– Quyển sách những bài ca (Buch der Lieder, 1827)
– Quyển sách những bài ca (Buch der Lieder, 1827)
– Những bức tranh du lịch (Reisebilder)
Tập 1– Du lịch Harz (Die Harzreise, 1826)
Tập 2 – Biển Bắc (Nordsee) và Ý tưởng. Sách Le Grand (Ideen. Das Buch Le Grand, 1827)
Tập 3 – Du lịch từ Munich đến Genoe (Reise von München nach Genua) và Bồn tắm Lucca (Die Bäder von Lucca, 1829)
Tập 4 – Thành phố Lucca (Die Stadt Lucca) và Những trích đoạn Anh (Englische Fragmente, 1831)
– Thơ Mới (Neue Gedichte, 1844)
– Thơ Mới (Neue Gedichte, 1844)
– Nước Đức. Câu chuyện cổ mùa đông (Deutschland, ein Wintermrchen, 1844).
– Atta Troll: Giấc mộng đêm hè (Atta Troll: Ein Sommernachtstraum, 1847)
– Romanzero (Romanzero, 1851)
272.Ở ĐÂU?
Ở đâu, người lữ thứ
Sẽ gửi nắm xương
tàn?
Phương Nam, dưới
bóng cọ?
Hay dưới liễu sông
Ranh?
Hay ở nơi sa mạc
Tay người lạ sẽ
chôn?
Hay bên bờ biển
xanh
Mộ nằm trên bờ cát?
Ở nơi nào cũng được
Miễn là có bầu trời
Và trên mộ của tôi
Có sao như đèn đốt.
Wo?
Wo wird einst des
Wandermüden
Letzte Ruhestätte
sein?
Unter Palmen in dem
Süden?
Unter Linden an dem
Rhein?
Werd ich wo in
einer Wüste
Eingescharrt von
fremder Hand?
Oder ruh ich an der
Küste
Eines Meeres in dem
Sand?
Immerhin! Mich wird
umgeben
Gotteshimmel, dort
wie hier,
Und als Totenlampen
schweben
Nachts die Sterne
über mir.
273.KHÚC TRÁNG CA
Tôi là ngọn lửa,
tôi là thanh gươm.
Tôi soi sáng cho
các bạn giữa bóng đêm, và khi trận đánh mở màn, tôi đã tiến lên phía trước, ở
hàng đầu tiên.
Xung quanh tôi là
xác bạn bè tôi đang nằm, nhưng chúng ta đã thắng. Chúng ta đã thắng, nhưng xác
bạn bè tôi vẫn nằm ở xung quanh. Trong tiếng kèn mừng chiến thắng ta nghe ra tiếng
kèn của lễ tang. Nhưng chúng ta không có thời gian để mừng vui hoặc đau buồn.
Những hồi trống lại nổi lên, giục giã ta bước vào trận đánh.
Tôi là ngọn lửa,
tôi là thanh gươm.
Hymnus
Ich bin das
Schwert, ich bin die Flamme.
Ich habe euch
erleuchtet in der Dunkelheit, und als die Schiacht begann, focht ich voran, in
der ersten Reihe.
Rand um mich her
liegen die Leichen meiner Freunde, aber wir haben gesiegt. Wir haben gesiegt,
aber rund umher liegen die Leichen meiner Freunde. In die jauchzenden
Triumphgesänge tönen die Choräle der Totenfeier. Wir haben aber weder Zeit zur
Freude noch zur Trauer. Aufs neue erklingen die Drommeten, es gilt neuen Kampf
-
Ich bin das
Schwert, ich bin die Flamme.
274.GỬI NHÀ THƠ CHÍNH
TRỊ
Như Tytai, thơ anh
Ca ngợi những anh
hùng
Nhưng thời cuộc
thay đổi
Bạn đọc đã không
còn.
Họ lắng nghe, tất
nhiên
Và không ngớt lời
khen
Rằng thơ nhiều ý tưởng
Độc đáo cách gieo vần.
Nhưng tay cầm rượu
vang
Hoan hô, họ kêu lên
Và bài ca trận mạc
Họ cùng nhau hát
lên.
Và họ vẫn hát vang
Trong quán nhậu
tưng bừng
Nhưng chẳng qua là
để
Ăn và uống ngon
hơn.
____________
*Tyrtäus (Tyrtaios)
– nhà thơ Hy Lạp cổ đại sống vào khoảng thế kỷ VII trước CN, người làm thơ ca
ngợi những người lính Sparta trong cuộc chiến tranh Messenian thứ 2 (Second
Messenian War).
An
einen politischen Dichter
Du singst wie einst
Tyrtäus sang,
Von Heldenmut
beseelet,
Doch hast du
schlecht dein Publikum
Und deine Zeit
gewählet.
Beifällig horchen
sie dir zwar,
Und loben schier
begeistert:
Wie edel dein
Gedankenflug,
Wie du die Form
bemeistert.
Sie pflegen auch
beim Glase Wein
Ein Vivat dir zu
bringen,
Und manchen
Schlachtgesang von dir
Lautbrüllend
nachzusingen.
Der Knecht singt
gern ein Freiheitslied
Des Abends in der
Schenke:
Das fördert die
Verdauungskraft
Und würzet die
Getränke.
THƠ TUYỂN 1845 – 1856
(Nachgelesene Gedichte 1845 – 1856)
275.KHÁT KHAO TĨNH
LẶNG
Hãy để máu chảy ra
từ vết thương
Và để nước mắt
thành dòng chảy xuống
Trong nỗi buồn có
đam mê bí ẩn
Chẳng có rượu vang
nào ngọt ngào hơn.
Khi bạn gây ra vết
thương cho mình
Mà không phải vì
bàn tay ai đó
Thì bạn hãy nhớ cám
ơn Thiên Chúa
Vì nước mắt đang chảy
xuống triền miên.
Khi tiếng động ngày
im ắng, đến đêm
Bạn sẽ tìm ra lặng
yên ở đó
Không còn tiếng của
người ta la ó
Hay những lời kể khổ
của người thân.
Bạn tìm được nơi
trú ẩn cho mình
Khỏi tiếng nhạc réo
rắt như tra tấn
Khỏi tiếng ồn ào ở
Nhà hát Lớn
Nơi tiếng sáo đàn
không ngớt ầm vang.
Khỏi danh xưng là
nghệ sĩ bậc thầy
Khỏi những lời vang
lên như tiếng sấm
Những lời khen từ
năm châu bốn biển
Trước vinh quang
Giacomo thiên tài.
Ôi ngôi mộ! Thiên
đường cho đôi tai
Trước âm thanh ngọt
ngào luôn sợ sệt
Chết là tốt, nhưng
tốt hơn nếu được
Mẹ đừng sinh ta ra ở
trên đời.
Ruhelechzend
Laß bluten deine
Wunden, laß
Die Tränen fließen
unaufhaltsam -
Geheime Wollust
schwelgt im Schmerz,
Und Weinen ist ein
süßer Balsam.
Verwundet dich
nicht fremde Hand,
So mußt du selber
dich verletzen;
Auch danke hübsch
dem lieben Gott,
Wenn Zähren deine
Wangen netzen.
Des Tages Lärm
verhallt, es steigt
Die Nacht herab mit
langen Flören.
In ihrem Schoße
wird kein Schelm,
Kein Tölpel deine
Ruhe stören.
Hier bist du sicher
vor Musik,
Vor des
Piano-Fortes Folter,
Und vor der großen
Oper Pracht
Und schrecklichem
Bravourgepolter.
Hier wirst du nicht
verfolgt, geplagt
Vom eitlen
Virtuosenpacke
Und vom Genie
Giacomos
Und seiner
Weltberühmtheitsclaque.
O Grab, du bist das
Paradies
Für pöbelscheue,
zarte Ohren -
Der Tod ist gut,
doch besser wärs,
Die Mutter hätt uns
nie geboren.
276.TRONG THÁNG NĂM
Những bạn bè tôi
quí trọng, mến thương
Họ làm cho tôi đủ
điều khốn khổ
Tim tôi đau. Nhưng
mặt trời vui vẻ
Luôn mỉm cười để
chào đón mùa xuân.
Cây cối đâm chồi.
Giữa chốn rừng xanh
Tiếng của chim hót
trên cành vui vẻ
Những cô gái và hoa
cười hớn hở
Ôi cuộc đời tuyệt đẹp,
thật là kinh!
Tôi mê vương quốc
thần chết nhiều hơn
Vì ở đó không có gì
tương phản
Những con tim khổ
đau còn vui sướng
Trên sông Stige dù
nước màu đêm.
Nơi đó giọng nói, vẻ
mặt u buồn
Có tiếng chim
Stymphal ăn thịt
Và tiếng hát thần
trả thù khủng khiếp
Tiếng chó Xéc-be-rơ
vẫn sủa canh chừng.
Đã đành đấy là xứ sở
đau thương
Thung lũng u sầu,
vương quốc bóng tối
Nơi nữ thần
Proserpinen qua lại
Nhưng hợp hơn với
nước mắt người trần.
Còn ở đây thật nghiệt
ngã vô cùng
Mặt trời và hoa vẫn
làm tôi khổ
Ôi bầu trời, bầu trời
xanh danh dự
Ôi cuộc đời tuyệt đẹp,
thật là kinh!
______________
*Trong bài này có một
số danh từ cần chú thích như sau: *Vương quốc thần chết (Orkus) – tức xứ sở của
thần Orkus trong thần thoại La Mã; **sông Stige
dòng sông dưới Địa ngục trong thần thoại Hy Lạp; ***chim Stymphal – là
loài chim ăn thịt có lông như mũi tên trong thần thoại Hy Lạp; ****thần trả thù
– tức Furies (La Mã), hoặc Erinyes (Hy Lạp) là nữ thần trả thù trong thần thoại Hy Lạp,
La Mã; *****Cerberus – là chó săn ba đầu, đuôi rắn canh giữ cổng vào Địa ngục
trong thần thoại Hy Lạp; ******Proserpinen – là bà hoàng Âm phủ trong thần thoại
Hy Lạp, một năm trở lại trần gian vào mùa xuân nên còn được gọi là là nữ thần
mùa xuân.
Im Mai
Die Freunde, die
ich geküßt und geliebt,
Die haben das
Schlimmste an mir verübt.
Mein Herze bricht;
doch droben die Sonne,
Lachend begrüßt sie
den Monat der Wonne.
Es blüht der Lenz.
Im grünen Wald
Der lustige
Vogelgesang erschallt,
Und Mädchen und
Blumen, sie lächeln jungfräulich -
O schöne Welt, du
bist abscheulich!
Da lob ich mir den
Orkus fast;
Dort kränkt uns
nirgends ein schnöder Kontrast;
Für leidende Herzen
ist es viel besser
Dort unten am
stygischen Nachtgewässer.
Sein melancholisches
Geräusch,
Der Stymphaliden
ödes Gekreisch,
Der Furien
Singsang, so schrill und grell,
Dazwischen des
Cerberus Gebell -
Das paßt
verdrießlich zu Unglück und Qual -
Im Schattenreich,
dem traurigen Tal,
In Proserpinens
verdammten Domänen,
Ist alles im
Einklang mit unseren Tränen.
Hier oben aber, wie
grausamlich
Sonne und Rosen
stechen sie mich!
Mich höhnt der
Himmel, der bläulich und mailich -
O schöne Welt, du
bist abscheulich!
277.GỬI LAXARƠ
Hãy bỏ những dụ
ngôn
Và các giả thuyết
thánh
Xin hãy trả lời thẳng
Câu hỏi của người
trần.
Tại sao người đàng
hoàng
Lại khổ đau, bất hạnh
Sao những thằng đểu
cáng
Lại hạnh phúc, vinh
quang.
Ai có lỗi? Chúa
chăng
Ngài không đủ quyền
hạn?
Hay Ngài cũng nghịch
ngợm?
Nếu vậy, quả đáng
thương.
Cho đến ngày cuối
cùng
Ta vẫn còn mong muốn
Chết đất lấp đầy miệng
–
Là câu trả lời
chăng?
Zum
Lazarus
Laß die heilgen
Parabolen,
Laß die frommen
Hypothesen -
Suche die
verdammten Fragen
Ohne Umschweif uns
zu lösen.
Warum schleppt sich
blutend, elend,
Unter Kreuzlast der
Gerechte,
Während glücklich
als ein Sieger
Trabt auf hohem Roß
der Schlechte?
Woran liegt die
Schuld? Ist etwa
Unser Herr nicht
ganz allmächtig?
Oder treibt er
selbst den Unfug?
Ach, das wäre
niederträchtig.
Also fragen wir
beständig,
Bis man uns mit
einer Handvoll
Erde endlich stopft
die Mäuler -
Aber ist das eine
Antwort?
278.MỘT CÔ GÁI TÓC
ĐEN
Một cô gái tóc đen
Đưa bàn tay ve vuốt
Mái đầu tôi đã bạc
Nước mắt chảy ròng
ròng.
Người tôi bị uốn
cong
Nụ hôn làm mù mắt
Héo hon trong đầu
óc
Vì những nụ hôn nồng.
Thân tôi như xác chết
Linh hồn bị cầm tù
Trên bảo dưới không
nghe
Chẳng biết làm sao
được.
Sự bất lực chết tiệt!
Giống như một bầy
ruồi
Chỉ đành chịu đựng
thôi
Đành nguyện cầu và
khóc.
Es
hatte mein Haupt die schwarze Frau
Es hatte mein Haupt
die schwarze Frau
Zärtlich an’s Herz
geschlossen;
Ach! meine Haare
wurden grau,
Wo ihre Thränen
geflossen.
Sie küßte mich
lahm, sie küßte mich krank,
Sie küßte mir blind
die Augen;
Das Mark aus meinem
Rückgrat trank
Ihr Mund mit wildem
Saugen.
Mein Leib ist jetzt
ein Leichnam, worin
Der Geist ist
eingekerkert –
Manchmal wird ihm
unwirsch zu Sinn,
Er tobt und rast
und berserkert.
Ohnmächtige Flüche!
Dein schlimmster Fluch
Wird keine Fliege
tödten.
Ertrage die
Schickung, und versuch’
Gelinde zu flennen,
zu beten.
279.SAO NGƯƠI BÒ CHẬM
THẾ
Sao ngươi bò chậm
thế
Hở con sên thời
gian
Ta nằm yên một chỗ
Đau đớn vì bệnh
tình.
Tia nắng hay hy vọng
Không còn ghé nhà
ta
Ta biết ngày sắp đến
Nghĩa trang thay
cho nhà.
Có lẽ ta đã chết
Từ lâu, chỉ bóng ma
Đêm đêm lại hiện về
Lượn lờ trong đầu
óc.
Mà có thể bóng ma
Từ thời nào xưa cổ
Về đây để chọn lựa
Hộp sọ của nhà thơ.
Trò chơi đến lạ kỳ
Của những điều mộng
mị
Và bàn tay thi sĩ
Buổi sáng vẫn làm
thơ.
Wie
langsam kriechet sie dahin
Wie langsam kriechet
sie dahin,
Die Zeit, die
schauderhafte Schnecke!
Ich aber, ganz
bewegunglos
Blieb ich hier auf
demselben Flecke.
In meine dunkle
Zelle dringt
Kein Sonnenstrahl,
kein Hoffnungsschimmer;
Ich weiß, nur mit
der Kirchhofsgruft
Vertausch’ ich dies
fatale Zimmer.
Vielleicht bin ich
gestorben längst;
Es sind vielleicht
nur Spukgestalten
Die Phantasieen,
die des Nachts
Im Hirn den bunten
Umzug halten.
Es mögen wohl
Gespenster sein,
Altheidnisch
göttlichen Gelichters;
Sie wählen gern zum
Tummelplatz
Den Schädel eines
todten Dichters. –
Die schaurig süßen
Orgia,
Das nächtlich tolle
Geistertreiben,
Sucht des Poeten
Leichenhand
Manchmal am Morgen
aufzuschreiben.
280.TỪNG ĐI QUA BAO
VÙNG
Từng đi qua bao
vùng
Nhiều bông hoa đã
thấy
Nhưng vì lười,
không hái
Chỉ kiêu hãnh đi
ngang.
Giờ bất hạnh, đáng
thương
Giờ sắp nằm trong mộ
Tôi lại nghe rất rõ
Mùi hoa từng bỏ
quên.
Có một bông hoa
vàng
Cháy lên trong đầu
óc
Thấy tiếc đến day dứt
Không thưởng thức một
lần.
Chỉ còn an ủi rằng
Sông Lethe quyền lực
Sẽ giúp người ngu
ngốc
Quên trong đêm dịu
dàng.
____________
*Lethe – dòng sông
Quên lãng ở dưới Địa ngục được nói đến trong nhiều tác phẩm cổ, mà đặc biệt là
trong “Thần Khúc” của Dante Alighieri.
Einst
sah ich viele Blumen blühen
Einst sah ich viele
Blumen blühen
An meinem Weg;
jedoch zu faul,
Mich pflückend
nieder zu bemühen,
Ritt ich vorbei auf
stolzem Gaul.
Jetzt, wo ich
todessiech und elend,
Jetzt, wo
geschaufelt schon die Gruft,
Oft im Gedächtniß
höhnend, quälend,
Spukt der
verschmähten Blumen Duft.
Besonders eine
feuergelbe
Viole brennt mir
stets im Hirn.
Wie reut es mich,
daß ich dieselbe
Nicht einst genoß,
die tolle Dirn.
Mein Trost ist:
Lethe’s Wasser haben
Noch jetzt verloren
nicht die Macht,
Das dumme
Menschenherz zu laben
Mit des Vergessens
süßer Nacht.
281.HÌNH DẠNG CỦA
NHÂN SƯ
Hình dạng của Nhân
sư*
Gán vào người phụ nữ
Chỉ khác phần phụ
là
Thân hình con sư tử.
Bóng đen của cái chết
Đây quả đúng Nhân
sư
Câu hỏi không giải
ra
Cha của chàng
Ê-đíp**.
Cũng may, lời giải
đáp
Tôi không đủ sức
làm
Nếu không, cả thế
gian
Sẽ hoang tàn đổ
nát.
___________
*Nhân sư (Sphinx) -
là một nhân vật thần thoại biến thái động vật được thể hiện bằng một con sư tử
nằm với một cái đầu người phụ nữ. Người Hy Lạp cổ cho là một quái vật nữ, “kẻ
bóp cổ”, một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp.
**Ê-đíp (Oedipus) –
là con trai của vua Laius và hoàng hậu Jocasta thành Thebes (Hy Lạp). Từ trước
khi chàng ra đời, có một lời sấm cho rằng chàng là người sẽ giết vua cha và cưới
mẹ chàng. Vì vậy, Laius lo sợ và ông đã bàn với hoàng hậu là phải giết Oedipus
do sợ chàng sẽ giết cha, cưới mẹ. Cuối cùng, Oedipus lại được giấu đi, và được
một người khác nuôi ở nơi khác. Khi chàng lớn lên, lúc đó xứ Thebes gặp một tai
họa lớn, có một con Nhân sư quái ác thường ra một câu đố oái oăm, ai không trả
lời được thì nó xé xác. Vua Laius nghe tin, ông đi tới trả lời câu hỏi của nó, ở
đây Oedipus gặp Laius, họ tranh cãi về hướng đi rồi Oedipus giết Laius mà không
biết đó là cha mình. Oedipus tiếp tục đi về Thebes và giải phóng vương quốc này
bằng cách giải được câu đố của Nhân sư. Chàng được phong làm vua và cưới hoàng
hậu Jocasta góa phụ mà không hề biết đó là mẹ mình. Ngày kia, có một hầu cận
già của vua Laius đã cho biết câu chuyện. Khi đó hoàng hậu Jocasta tự tử,
Oedipus lấy cái trâm trên đầu hoàng hậu mà chọc đui mắt của mình.
Die
Gestalt der wahren Sphinx
Die Gestalt der
wahren Sphinx
Weicht nicht ab von
der des Weibes;
Faselei ist jener
Zusatz
Des betatzten
Löwenleibes.
Todesdunkel ist das
Rätsel
Dieser wahren
Sphinx. Es hatte
Kein so schweres zu
erraten
Frau Jokastens Sohn
und Gatte.
Doch zum Glücke
kennt sein eignes
Rätsel nicht das
Frauenzimmer;
Spräch es aus das
Lösungswort,
Fiele diese Welt in
Trümmer.
282.BA CÔ Ở NGÃ TƯ
Ba cô ở ngã tư
Ngồi quay tơ xe chỉ
Họ thở dài, suy
nghĩ
Khi xâu chỉ, xe tơ.
Người đầu tiên phải
lo
Xâu chỉ vào guồng sợi
Phải ngậm ướt đầu
chỉ
Môi lúc nào cũng
khô.
Người thứ hai xoay
trục
Để kéo dài vòng đời
Công việc đến buồn
cười
Nên mắt cô đỏ rực.
Trong tay cô thứ ba
Là một chiếc kéo lớn
Cô hát bài Thánh ca
Trên mũi cô đầy mụn.
Thôi hãy cắt cho
chóng
Sợi chỉ chuộc đời
tôi
Để kết thúc cuộc đời
Khổ đau và cay đắng!
___________
*Ba cô – tức ba nữ
thần của số phận con người trong thần thoại Hy Lạp (Moirai), La Mã (Parcae).
Trong đó Làchesis xâu chỉ (bắt đầu cuộc đời), Cloto kéo sợi (kéo dài cuộc đời)
và Atropos cắt chỉ (kết thúc cuộc đời).
Es
sitzen am Kreuzweg drei Frauen
Es sitzen am
Kreuzweg drei Frauen,
Sie grinsen und
spinnen,
Sie seufzen und
sinnen;
Sie sind gar
häßlich anzuschauen.
Die erste trägt den
Rocken,
Sie dreht die
Fäden,
Befeuchtet jeden;
Deshalb ist die
Hängelippe so trocken.
Die zweite läßt
tanzen die Spindel;
Das wirbelt im
Kreise,
In drolliger Weise;
Die Augen der Alten
sind rot wie Zindel.
Es hält die dritte
Parze
In Händen die
Schere,
Sie summt Miserere;
Die Nase ist spitz,
drauf sitzt eine Warze.
O spute dich und
zerschneide
Den Faden, den
bösen,
Und laß mich
genesen
Von diesem
schrecklichen Lebensleide!
283.LỜI KHUYÊN CHÂN
THÀNH
Đừng e ngại, rụt rè
Hãy ra tay hành động
Rồi bạn sẽ được dẫn
Cô dâu đến nhà thờ.
Nhớ cho nhạc công
tiền
Để họ chơi vui vẻ
Khi ôm hôn mẹ vợ
Nghĩ: “Hãy biến cho
nhanh”.
Khen ngợi các quí
ông
Đừng làm phiền phụ
nữ
Nếu thịt lợn đã mổ
Thì đừng tiếc giăm
bông.
Nếu Giáo hội không
thương
Hãy thường xuyên
thăm họ
Nếu Linh mục ở đó
Biếu ông chai rượu
vang.
Nếu ngứa ngáy trong
mình
Hãy gãi trong danh
dự
Nếu giày đẹp không
có
Cứ việc đi dép thường.
Nếu người vợ yêu
thương
Nấu món xúp mặn quá
Thì cười: “Búp bê ạ
Xúp em nấu rất
ngon”.
Nếu vợ cần chiếc
khăn
Mua tặng nàng hai
chiếc
Đồ trang sức vàng bạc
Nhớ mua tặng cho
nàng.
Hãy làm theo lời
khuyên
Và bạn sẽ thỏa mãn
Sống dưới đất yên ổn
Chết được lên thiên
đàng.
Guter
Rat
Laß dein Grämen und
dein Schämen!
Werbe keck und
fordre laut,
Und man wird sich
dir bequemen,
Und du führest heim
die Braut.
Wirf dein Gold den
Musikanten,
Denn die Fiedel
macht das Fest;
Küsse deine
Schwiegertanten,
Denkst du gleich:
Hol euch die Pest!
Rede gut von einem
Fürsten,
Und nicht schlecht
von einer Frau;
Knickre nicht mit
deinen Würsten,
Wenn du schlachtest
eine Sau.
Ist die Kirche dir
verhaßt, Tor,
Desto öfter geh
hinein;
Zieh den Hut ab vor
dem Pastor,
Schick ihm auch ein
Fläschchen Wein.
Fühlst du irgendwo
ein Jücken,
Kratze dich als
Ehrenmann;
Wenn dich deine
Schuhe drücken,
Nun, so zieh
Pantoffeln an.
Hat versalzen dir
die Suppe
Deine Frau, bezähm
die Wut,
Sag ihr lächelnd:
Süße Puppe,
Alles was du kochst
ist gut.
Trägt nach einem
Schal Verlangen
Deine Frau, so kauf
ihr zwei;
Kauf ihr Spitzen,
goldne Spangen
Und Juwelen noch
dabei.
Wirst du diesen Rat
erproben,
Dann, mein Freund!
genießest du
Einst das
Himmelreich dort oben,
Und du hast auf
Erden Ruh.
284.VỢ CHỒNG KẺ CẮP
Khi Laura say sưa
Hôn tôi và âu yếm
Thì anh chồng khốn
nạn
Lấy sạch tiền của
tôi.
Bây giờ túi tôi rỗng
Chẳng lẽ tại Laura
Lẽ thật là cái gì?
Phi-lát đâu cần chứng*.
Thế giới này dối
gian
Tôi cần mau từ giã
Sống mà không có tiền
Coi như chết một nửa.
Hỡi những hồn hằng
phúc
Tôi muốn về đó ngay
Nơi đó có đủ đầy
Không ai cần ăn cắp.
_______
*Lẽ thật là cái gì?
– đây là câu mà quan xét xử Phi-lát hỏi Giêsu trong Kinh Thánh (Giăng, 18: 38).
Schnapphahn
und Schnapphenne
Derweilen auf dem
Lotterbette
Mich Lauras Arm
umschlang - der Fuchs,
Ihr Herr Gemahl,
aus meiner Buchs
Stibitzt er mir die
Bankbillette.
Da steh ich nun mit
leeren Taschen!
War Lauras Kuß
gleichfalls nur Lug?
Ach! Was ist
Wahrheit? Also frug
Pilat und tät die
Händ sich waschen.
Die böse Welt, die
so verdorben,
Verlaß ich bald,
die böse Welt.
Ich merke: hat der
Mensch kein Geld,
So ist der Mensch
schon halb gestorben.
Nach Euch, Ihr
ehrlich reinen Seelen,
Die Ihr bewohnt das
Reich des Lichts,
Sehnt sich mein
Herz. Dort braucht Ihr nichts,
Und braucht deshalb
auch nicht zu stehlen.
285.ĐỪNG NHỚ ĐẾN HẮN
TA
“Đừng nhớ đến hắn
ta!”
Nhiều lần tôi nghe
thấy
Bà Esther Wolf nói vậy
Tôi còn nhớ đến giờ.
Người đời quên hắn
ta
Sẽ không còn dấu vết
Kẻ đáng nguyền rủa
nhất
Đừng nhớ đến hắn
ta!
Dù trong trái tim
kia
Máu sôi như cơn lũ
Nhưng đừng nhắc về
nó
Đừng nhớ đến hắn
ta!
Đừng nhớ đến hắn
ta!
Trong lời ca, trong
sách
Cứ để cho hắn chết
Như con chó trong mồ.
Cả khi kèn gọi ra
Người chết nằm
trong mộ
Khi trong ngày phán
xử
Đám đông đứng trước
tòa.
Thiên thần sẽ gọi
ra
Ai phải về địa ngục
Ai thiên đường hạnh
phúc
Đừng nhớ đến hắn
ta!
Nicht
gedacht soll seiner werden!
»Nicht gedacht soll
seiner werden!«
Aus dem Mund der
armen alten
Esther Wolf hört
ich die Worte,
Die ich treu im
Sinn behalten.
Ausgelöscht sein
aus der Menschen
Angedenken hier auf
Erden,
Ist die Blume der
Verwünschung -
Nicht gedacht soll
seiner werden!
Herz, mein Herz,
ström aus die Fluten
Deiner Klagen und
Beschwerden,
Doch von ihm sei
nie die Rede -
Nicht gedacht soll
seiner werden!
Nicht gedacht soll
seiner werden,
Nicht im Liede,
nicht im Buche -
Dunkler Hund im
dunkeln Grabe,
Du verfaulst mit
meinem Fluche!
Selbst am
Auferstehungstage,
Wenn, geweckt von
den Fanfaren
Der Posaunen,
schlotternd wallen
Zum Gericht die
Totenscharen,
Und alldort der
Engel abliest
Vor den göttlichen
Behörden
Alle Namen der
Geladnen -
Nicht gedacht soll
seiner werden!
286.VỚI NHỮNG NGƯỜI
HẠNH PHÚC
Với những người hạnh
phúc
Tôi không ghen cuộc
đời
Nhưng tôi ghen họ
chết
Thật nhàn nhã, thảnh
thơi.
Đang trong bữa tiệc
vui
Mặc áo quần sang trọng
Bỗng tử thần ập đến
Dùng lưỡi hái bắt
ngay.
Quần áo đẹp, hoa
tươi
Như khi đang còn sống
Vào vương quốc của
bóng
Người yêu của thần
tài.
Không đau ốm liệt
giường
Cái chết là ân sủng
Và được đến cung điện
Của nữ thần mùa
xuân*.
Còn tôi đã bảy năm
Vẫn mong chờ cái chết
Vậy mà không chết
được
Chỉ dằn vặt trên
giường.
Xin rút ngắn thời
gian
Xin nguyện cầu
Thiên Chúa!
Bởi vì chịu đau khổ
Tôi không có tài
năng.
Tôi lấy làm ngạc
nhiên
Bởi một điều nghịch
lý:
Sao nhà thơ vui vẻ
Lại chẳng có hân
hoan?
Hãy cho tôi được chết
Đừng bắt tôi u buồn
Để tôi sẽ trở thành
Người theo đạo Cơ đốc.
Tôi van xin hết mực
Theo cách của con
chiên:
Xin Ngài kết thúc
giùm
Kẻ khôi hài số một!
_____________
*Proserpine – là nữ
thần trong thần thoại Hy Lạp, qua câu chuyện về nữ thần này, được người đời gọi
là nữ thần của mùa xuân.
Die
Söhne des Glückes beneid ich nicht
Die Söhne des
Glückes beneid ich nicht
Ob ihrem Leben,
beneiden
Will ich sie nur ob
ihrem Tod,
Dem schmerzlos
raschen Verscheiden.
Im Prachtgewand,
das Haupt bekränzt
Und Lachen auf der
Lippe,
Sitzen sie froh
beim Lebensbankett -
Da trifft sie
jählings die Hippe.
Im Festkleid und
mit Rosen geschmückt,
Die noch wie lebend
blühten,
Gelangen in das
Schattenreich
Fortunas Favoriten.
Nie hatte Siechtum
sie entstellt,
Sind Tote von guter
Miene,
Und huldreich
empfängt sie an ihrem Hof
Zarewna Proserpine.
Wie sehr muß ich
beneiden ihr Los!
Schon sieben Jahre
mit herben,
Qualvollen
Gebresten wälz ich mich
Am Boden und kann
nicht sterben!
O Gott, verkürze
meine Qual,
Damit man mich bald
begrabe;
Du weißt ja, daß
ich kein Talent
Zum Martyrtume
habe.
Ob deiner
Inkonsequenz, o Herr,
Erlaube, daß ich
staune:
Du schufest den
fröhlichsten Dichter, und raubst
Ihm jetzt seine
gute Laune.
Der Schmerz
verdumpft den heitern Sinn
Und macht mich
melancholisch;
Nimmt nicht der
traurige Spaß ein End,
So werd ich am Ende
katholisch.
Ich heule dir dann
die Ohren voll,
Wie andre gute
Christen -
O Miserere!
Verloren geht
Der beste der
Humoristen!
287.ÔI VĨNH HẰNG
Ôi Vĩnh hằng, sao
mà ngươi dài thế
Ngươi nhiều hơn, so
với cả nghìn năm…
Một nghìn năm tôi đã
từng đốt cháy
Mà vẫn không tìm ra
điểm cuối cùng
Ôi Vĩnh hằng, sao
mà ngươi dài thế
Ngươi nhiều hơn, so
với cả nghìn năm…
Và cuối cùng quỉ Sa
tăng cũng tới
Gặm nhấm tôi cả da
thịt và xương.
Ewigkeit,
wie bist du lang
Ewigkeit, wie bist
du lang,
Länger noch als
tausend Jahr;
Tausend Jahre brat
ich schon,
Ach! und ich bin
noch nicht gar.
Ewigkeit, wie bist
du lang,
Länger noch als
tausend Jahr;
Und der Satan kommt
am End,
Frißt mich auf mit
Haut und Haar.
288.CÁI CHẾT VỀ BÂY
GIỜ TÔI MỚI NÓI
Cái chết về. Bây giờ
tôi mới nói
Đành bỏ qua thề thốt
một lời nguyền
Rằng con tim đã bao
năm nhức nhối
Một nỗi buồn mòn mỏi
chỉ vì em.
Quan tài đợi. Và
bóng đen cau có
Tôi ngủ quên trong
giấc ngủ muôn đời
Chỉ mình em, Maria,
hãy nhớ
Chỉ mình em khóc
thương tiếc cho tôi.
Bàn tay đẹp em nhớ
đừng làm hỏng
Chỉ thế thôi số phận
của con người
Ai chỉ sống với cuộc
đời cao thượng
Khi chết rồi chỉ
còn tiếc mà thôi.
Es
kommt der Tod - jetzt will ich sagen
Es kommt der Tod -
jetzt will ich sagen,
Was zu verschweigen
ewiglich
Mein Stolz gebot:
für dich, für dich,
Es hat mein Herz
für dich geschlagen!
Der Sarg ist
fertig, sie versenken
Mich in die Gruft.
Da hab ich Ruh.
Doch du, doch du,
Maria, du
Wirst weinen oft
und mein gedenken.
Du ringst sogar die
schönen Hände -
O tröste dich - Das
ist das Los,
Das Menschenlos: -
was gut und groß
Und schön, das
nimmt ein schlechtes Ende.
289.TÔI KHÔNG HỀ
QUYẾN RŨ
Tôi không hề quyến
rũ
Thiếu nữ bằng thơ
tình
Không đụng đến phụ
nữ
Nếu người đó có chồng.
Bởi nếu tôi nói
phét
Thì đâu còn xứng
danh
Và bạn sẽ có quyền
Nhổ nước bọt vào mặt.
Hab
eine Jungfrau nie verführet
Hab eine Jungfrau
nie verführet
Mit Liebeswort, mit
Schmeichelei;
Ich hab auch nie
ein Weib berühret,
Wußt ich, daß sie
vermählet sei.
Wahrhaftig, wenn es
anders wäre,
Mein Name, er
verdiente nicht
Zu strahlen in dem
Buch der Ehre;
Man dürft mir
spucken ins Gesicht.
290.CHÉN TÌNH TÔI UỐNG
CẠN
Chén tình tôi uống
cạn
Cho đến giọt cuối
cùng
Nó giống như rượu mạnh
Làm sức lực tiêu
tan.
Bây giờ tôi chuyển
sang
Chén bạn bè nồng ấm
Giống như cốc trà
nóng
Ấm áp tận ruột gan.
Geleert
hab ich nach Herzenswunsch
Geleert hab ich
nach Herzenswunsch
Der Liebe Kelch,
ganz ausgeleert;
Das ist ein Trank,
der uns verzehrt
Wie flammenheißer
Kognakpunsch.
Da lob ich mir die
laue Wärme
Der Freundschaft;
jedes Seelenweh
Stillt sie,
erquickend die Gedärme
Wie eine fromme
Tasse Tee.
291.BẠN TÔI ƠI PHẠM
THƯỢNG!
Bạn tôi ơi, phạm
thượng!
Khi bạn làm điều
này:
Bỏ Hanne tròn lẳn
Để yêu Marianne gầy!
Nếu yêu thịt – thì
bạn
Được coi là bình thường
Còn phóng đãng với
xương
Điều này là ghê tởm.
Quỉ Sa tăng nham hiểm
Đưa ta vào bẫy đây
Giống như người ăn
mặn
Bỗng dưng thích ăn
chay.
Welcher
Frevel, Freund! Abtrünnig
Welcher Frevel,
Freund! Abtrünnig
Wirst du deiner
fetten Hanne,
Und du liebst jetzt
jene spinnig
Dürre, magre
Marianne!
Läßt man sich vom
Fleische locken,
Das ist immer noch
verzeihlich;
Aber Buhlschaft mit
den Knochen,
Diese Sünde ist
abscheulich!
Das ist Satans böse
Tücke,
Er verwirret unsre
Sinne:
Wir verlassen eine
Dicke,
Und wir nehmen eine
Dünne!
292.TÔI KHÔNG MÊ ĐỒNG
CỎ CHỐN THIÊN ĐÀNG
Tôi không mê đồng cỏ
chốn thiên đàng
Và cuộc sống ở nơi
đầy hằng phúc
Những phụ nữ dưới đất
này xinh đẹp
Tôi không hề đi kiếm
ở trời xanh.
Cả những cô tiên dịu
dàng đôi cánh
Không thể nào thay
thế được vợ tôi
Cũng không phải trò
tiêu khiển như vầy:
Ngồi trên mây hát
những bài Thánh Vịnh.
Tốt nhất là nơi trần
thế, Chúa ơi
Ngài cho phép cuộc
đời tôi tiếp tục
Tôi chỉ xin sức khỏe
cho thân xác
Và đừng quên cho một
ít tiền tiêu.
Tôi biết thế gian tội
lỗi còn nhiều
Nhưng tôi đã quen
và tôi chịu đựng
Bản thân tôi cũng
bao phen lận đận
Trên con đường còn
lắm nước mắt rơi.
Cảnh lăng xăng bận
rộn của người đời
Chẳng hề làm tôi
vui hay buồn bực
Tôi chỉ thích khoác
áo choàng, đi dép
Ngồi hàn huyên với
vợ ở nhà thôi.
Hãy để cho tôi sống
với người này
Nghe giọng nói ngọt
ngào như suối nhạc
Nhìn vẻ âu yếm dịu
dàng trong mắt
Rất thủy chung,
trung thực của vợ tôi.
Chỉ sức khỏe và một
ít tiền tiêu
Là những điều mà
tôi cầu xin Chúa
Và xin thêm những
tháng ngày dài nữa
Bên người vợ hiền,
và chỉ thế thôi.
Mich
locken nicht die Himmelsauen
Mich locken nicht
die Himmelsauen
Im Paradies, im
selgen Land;
Dort find ich keine
schönre Frauen
Als ich bereits auf
Erden fand.
Kein Engel mit den
feinsten Schwingen
Könnt mir ersetzen
dort mein Weib;
Auf Wolken sitzend
Psalmen singen,
Wär auch nicht just
mein Zeitvertreib.
O Herr! ich glaub,
es wär das Beste,
Du ließest mich in
dieser Welt;
Heil nur zuvor mein
Leibgebreste,
Und sorge auch für
etwas Geld.
Ich weiß, es ist
voll Sünd und Laster
Die Welt; jedoch
ich bin einmal
Gewöhnt, auf diesem
Erdpechpflaster
Zu schlendern durch
das Jammertal.
Genieren wird das
Weltgetreibe
Mich nie, denn
selten geh ich aus;
In Schlafrock und
Pantoffeln bleibe
Ich gern bei meiner
Frau zu Haus.
Laß mich bei ihr!
Hör ich sie schwätzen,
Trinkt meine Seele
die Musik
Der holden Stimme
mit Ergötzen.
So treu und ehrlich
ist ihr Blick!
Gesundheit nur und
Geldzulage
Verlang ich, Herr!
O laß mich froh
Hinleben noch viel
schöne Tage
Bei meiner Frau im
statu quo!
293.NHÃ CA
Thân thể người phụ
nữ
Quả là một bài thơ
Do Thượng Đế tạo ra
Từ ngày đầu sáng tạo.
Trong một giờ nào đấy
Ngài đã rất vui mừng
Từ vật liệu đầu
tiên
Ngài bắt đầu làm chủ.
Cơ thể người phụ nữ
Quả là một bài ca
Mà lời ca tuyệt vời
Không gì hơn được nữa.
Ý tưởng của Thượng
Đế
Chính là chiếc cổ
trần
Chính là mái tóc
xoăn
Đặt ở trên đầu nhỏ.
Núm vú như nụ hồng
Là bài thơ trào
phúng
Đẹp ngoài sự tưởng
tượng
Là lạch nhỏ cách
ngăn.
Ngài tạo ra cặp đùi
Như làm bằng nhựa dẻo
Đằng sau chiếc lá vả
Là nơi chốn tuyệt vời.
Thơ Ngài không trìu
tượng
Có da thịt, tay
chân
Biết cười và biết
hôn
Bằng bờ môi âu yếm.
Thơ ở trong mọi chỗ
Thơ ở từng bước đi
Trên trán của bài
ca
Đẹp đến mức hoàn mỹ.
Con khen Ngài, Thượng
Đế
Trước Ngài, xin cúi
mình!
So với Nhà thơ
Thiên
Con chỉ đồ cẩu thả.
Con muốn chìm – Lạy
Chúa!
Trong tác phẩm của
Ngài
Suốt cả đêm cả ngày
Con miệt mài nghiên
cứu.
Suốt cả đêm cả ngày
Con không ngừng tìm
hiểu
Đôi chân con gầy yếu
Vì sự nghiên cứu
này.
Das
Hohelied
Des Weibes Leib ist
ein Gedicht,
Das Gott der Herr
geschrieben
Ins große Stammbuch
der Natur,
Als ihn der Geist
getrieben.
Ja, günstig war die
Stunde ihm,
Der Gott war
hochbegeistert;
Er hat den spröden,
rebellischen Stoff
Ganz künstlerisch
bemeistert.
Fürwahr, der Leib
des Weibes ist
Das Hohelied der
Lieder;
Gar wunderbare
Strophen sind
Die schlanken,
weißen Glieder.
O welche göttliche
Idee
Ist dieser Hals,
der blanke,
Worauf sich wiegt
der kleine Kopf,
Der lockige
Hauptgedanke!
Der Brüstchen
Rosenknospen sind
Epigrammatisch
gefeilet;
Unsäglich
entzückend ist die Zäsur,
Die streng den
Busen teilet.
Den plastischen
Schöpfer offenbart
Der Hüften
Parallele;
Der Zwischensatz
mit dem Feigenblatt
Ist auch eine
schöne Stelle.
Das ist kein
abstraktes Begriffspoem!
Das Lied hat
Fleisch und Rippen,
Hat Hand und Fuß;
es lacht und küßt
Mit schöngereimten
Lippen.
Hier atmet wahre
Poesie!
Anmut in jeder
Wendung!
Und auf der Stirne
trägt das Lied
Den Stempel der
Vollendung.
Lobsingen will ich
dir, o Herr,
Und dich im Staub anbeten!
Wir sind nur
Stümper gegen dich,
Den himmlischen
Poeten.
Versenken will ich
mich, o Herr,
In deines Liedes
Prächten;
Ich widme seinem
Studium
Den Tag mitsamt den
Nächten.
Ja, Tag und Nacht
studier ich dran,
Will keine Zeit
verlieren;
Die Beine werden
mir so dünn -
Das kommt vom
vielen Studieren.
294.HỌC THUYẾT
Hãy đánh trống thật
to
Hãy hôn nàng thắm
thiết
Đấy là môn khoa học
Đấy ý nghĩa sâu xa.
Người đang ngủ hãy
thức
Bằng sức sống trẻ
trung
Đánh trống khi diễu
hành
Đấy là môn khoa học.
Đấy triết học Hegel
Ý nghĩa sâu xa nhất
Vì tôi tay trống tốt
Vì tôi người thông
minh.
Doktrin
Schlage die Trommel
und fürchte dich nicht,
Und küsse die
Marketenderin!
Das ist die ganze
Wissenschaft,
Das ist der Bücher
tiefster Sinn.
Trommle die Leute
aus dem Schlaf,
Trommle Reveille
mit Jugendkraft,
Marschiere
trommelnd immer voran,
Das ist die ganze
Wissenschaft.
Das ist die
Hegelsche Philosophie,
Das ist der Bücher
tiefster Sinn!
Ich hab sie
begriffen, weil ich gescheit,
Und weil ich ein
guter Tambour bin.
295.ADAM ĐẦU TIÊN
Ngài phái những
thiên binh
Với giáo gươm rực lửa
Đuổi con khỏi thiên
đàng
Vì tội con phạm phải.
Con với vợ của mình
Sống ở cõi trần
gian
Nhưng vẫn mê trái cấm
Ngài không thể cấm
con.
Con đã biết được rằng
Điều đó thật đáng
thương
Dù cái chết, sấm
sét
Ngài vẫn dọa chúng
con.
Và lại cũng đáng
thương
“Ta khuyên ngươi
hãy biến!”
Và cả thứ ánh sáng
“Ánh sáng cho thế
gian!”
Không thể nào tưởng
tượng
Không thể nào hình
dung
Sao lại gọi Thiên
đường
Mà vẫn còn trái cấm?
Con muốn tự do hẳn
Không cấm đoán điều
chi
Thiên đường mà cấm
đoán
Là Địa ngục, Nhà
tù.
______________
*Consilium-abeundi!
(lời khuyên ra đi – tiếng Latinh); Lumen-Mundi! (ánh sáng cho thế gian – tiếng
Latinh).
Adam
der Erste
Du schicktest mit
dem Flammenschwert
Den himmlischen
Gensd’armen,
Und jagtest mich
aus dem Paradies,
Ganz ohne Recht und
Erbarmen!
Ich ziehe fort mit
meiner Frau
Nach and’ren
Erdenländern;
Doch daß ich
genossen des Wissens Frucht,
Das kannst du nicht
mehr ändern.
Du kannst nicht
ändern, daß ich weiß
Wie sehr du klein
und nichtig,
Und machst du dich
auch noch so sehr
Durch Tod und
Donnern wichtig.
O Gott! wie
erbärmlich ist doch dies
Consilium-abeundi!
Das nenne ich einen
Magnifikus
Der Welt, ein
Lumen-Mundi!
Vermissen werde ich
nimmermehr
Die paradiesischen
Räume;
Das war kein wahres
Paradies –
Es gab dort
verbotene Bäume.
Ich will mein
volles Freiheitsrecht!
Find’ ich die
g’ringste Beschränkniß,
Verwandelt sich mir
das Paradies
In Hölle und
Gefängniß.
296.ĐIỀU BÍ MẬT
Không thổn thức, lệ
rơi
Dù tiếng cười nghe
rõ
Trong mắt không thấy
rõ
Bí mật giấu trong
tôi.
Ẩn giấu tận trong
lòng
Nỗi khổ đau câm nín
Con tim dù đau đớn
Miệng vẫn cứ lặng
im.
Hãy hỏi trẻ trong
nôi
Người chết rồi
trong mộ
Có lẽ họ biết rõ
Điều bí mật trong
tôi.
Geheimnis
Wir seufzen nicht,
das Aug ist trocken,
Wir lächeln oft,
wir lachen gar!
In keinem Blick, in
keiner Miene,
Wird das Geheimnis
offenbar.
Mit seinen stummen
Qualen liegt es
In unsrer Seele
blutgem Grund;
Wird es auch laut
im wilden Herzen,
Krampfhaft
verschlossen bleibt der Mund.
Frag du den
Säugling in der Wiege,
Frag du die Toten
in dem Grab,
Vielleicht daß
diese dir entdecken,
Was ich dir stets
verschwiegen hab.
297.SỰ THOÁI HÓA
Thiên nhiên cũng xuống
cấp
Đều gian dối cả
thôi
Cả động vật, thực vật
Cũng gian dối như
người.
Huệ không còn trinh
trắng
Tôi đã chẳng còn
tin
Bướm lượn vòng âu yếm
Thì đâu còn trắng
trong.
Hoa tím vốn khiêm
nhường
Giờ không còn thế nữa
Loài hoa này giờ đã
Khao khát sự vinh
quang.
Tình cảm đã không
còn
Trong lời sơn ca
hót
Và tiếng lòng thổn
thức
Dường như chỉ thói
quen.
Sự thật, lòng thủy
chung
Đều biến mất đâu cả
Cái vẫy đuôi của
chó
Không còn vẻ trung
thành.
Entartung
Hat die Natur sich
auch verschlechtert,
Und nimmt sie
Menschenfehler an?
Mich dünkt, die
Pflanzen und die Tiere,
Sie lügen jetzt wie
jedermann.
Ich glaub nicht an
der Lilje Keuschheit,
Es buhlt mit ihr
der bunte Geck,
Der Schmetterling;
er küßt und flattert
Am End mit ihrer
Unschuld weg.
Von der
Bescheidenheit der Veilchen
Halt ich nicht
viel. Die kleine Blum,
Mit den koketten
Düften lockt sie,
Und heimlich
dürstet sie nach Ruhm.
Ich zweifle auch,
ob sie empfindet,
Die Nachtigall, das
was sie singt;
Sie übertreibt und
schluchzt und trillert
Nur aus Routine,
wie mich dünkt.
Die Wahrheit
schwindet von der Erde,
Auch mit der Treu
ist es vorbei.
Die Hunde wedeln
noch und stinken
Wie sonst, doch
sind sie nicht mehr treu.
298.BÊN KIA SÔNG
RANH
Giữa đồng cỏ hoang
sơ
Giữa hoa hồng thơm
ngát
Láu lỉnh và khù khờ
Yêu nhau theo đủ
cách
Trong nghệ thuật
tình yêu
Bậc thầy là người
Pháp.
Còn chúng ta hiểu
nhau
Người Đức chỉ biết
ghét
Chất chứa ở trong đầu
Hận thù như thuốc độc
Giá như mà đem rót
Thùng Hai-đơ-béc bé
teo*.
________________
*Thùng ở Heidelberg
– là một chiếc thùng cực lớn bằng gỗ sồi có dung tích 212.422 lít dùng để ủ rượu
vang được đặt ngầm dưới một tòa lâu đài. Đây là một danh thắng nổi tiếng của
thành phố Heidelberg.
Diesseits
und jenseits des Rheins
Sanftes Rasen,
wildes Kosen,
Tändeln mit den
glühnden Rosen,
Holde Lüge, süßer
Dunst,
Die Veredlung roher
Brunst,
Kurz, der Liebe
heitre Kunst -
Da seid Meister
ihr, Franzosen!
Aber wir verstehn
uns baß,
Wir Germanen, auf
den Haß.
Aus Gemütes Tiefen
quillt er,
Deutscher Haß! Doch
riesig schwillt er,
Und mit seinem
Gifte füllt er
Schier das
Heidelberger Faß.
299.NƯỚC ĐỨC QUÊ
HƯƠNG TÔI
Nước Đức quê hương
tôi
Đâu cũng có cây đời
Trái chín mọng,
nhưng khổ
Hình nộm dọa khắp
nơi.
Ta như bầy chim sẻ
Sợ yêu tinh, quỉ sứ
Nhìn anh đào nở hoa
Mà đành lòng nín chịu.
Anh đào đỏ, nhưng hột
Bên trong là cái chết
Chỉ ở trên trời cao
Có anh đào không hột.
Chúa Cha – Con –
Thánh thần
Mà hồn ta ngợi khen
Khát khao cái vĩnh
cửu
Linh hồn Đức đáng
thương.
Chỉ nơi có thiên thần
Là hạnh phúc muôn
năm
Còn ở đây đau khổ
Anh đào cũng chua
lòm.
Im
lieben Deutschland daheime
Im lieben
Deutschland daheime,
Da wachsen viel
Lebensbäume;
Doch lockt die
Kirsche noch so sehr,
Die Vogelscheuche
schreckt noch mehr.
Wir lassen uns wie
Spatzen
Einschüchtern von
Teufelsfratzen;
Wie auch die
Kirsche lacht und blüht,
Wir singen ein
Entsagungslied:
Die Kirschen sind
von außen rot,
Doch drinnen steckt
als Kern der Tod;
Nur droben, wo die
Sterne,
Gibts Kirschen ohne
Kerne.
Gott Vater, Gott
Sohn, Gott heiliger Geist,
Die unsere Seele
lobt und preist -
Nach diesen sehnet
ewiglich
Die arme deutsche
Seele sich.
Nur wo die Engel
fliegen,
Da wächst das ewge
Vergnügen;
Hier unten ist
alles Sünd und Leid
Und saure Kirsche
und Bitterkeit.
300.CELIMENE
Đừng nghĩ tôi ngu dốt
Mà bỏ quá cho em
Đừng nghĩ tôi thiên
thần
Lỗi lầm đều tha tuốt.
Chỉ với tôi mà thôi
Bởi vì tôi nhẫn nhục
Còn nếu như người
khác
Họ đã giết em rồi.
Thập ác nặng cho
tôi
Nhưng kiên trì chịu
đựng
Lỗi lầm tôi đã phạm
Bởi vì yêu em rồi.
Em – Tĩnh ngục của
tôi
Nhưng vì vòng tay xấu
Tôi sẽ xin chuộc tội
Bằng ân sủng của
Ngài.
Celimene
Glaube nicht, daß
ich aus Dummheit
Dulde deine
Teufeleien;
Glaub auch nicht,
ich sei ein Herrgott,
Der gewohnt ist zu
verzeihen.
Deine Nücken, deine
Tücken
Hab ich freilich
still ertragen.
Andre Leut an
meinem Platze
Hätten längst dich
tot geschlagen.
Schweres Kreuz!
Gleichviel, ich schlepp es!
Wirst mich stets
geduldig finden -
Wisse, Weib, daß
ich dich liebe,
Um zu büßen meine
Sünden.
Ja, du bist mein
Fegefeuer,
Doch aus deinen
schlimmen Armen
Wird geläutert mich
erlösen
Gottes Gnade und
Erbarmen.
301.CUỘC ĐỜI CỦA
TÔI
Cuộc đời của tôi
xưa nay tôi vẫn
Đem dâng cho những
ham muốn nhất thời
Và lần này lại nếm
vị đắng cay
Con tim của ta ơi đừng
than vãn.
Như người Xắc-xông
từ xưa đã nói
“Người hạnh phúc sống
theo số phận mình”
Cuộc đời đã trôi
qua, tôi bằng lòng
Và con tim tôi chẳng
hề tiếc nuối.
Niềm hạnh phúc mà
tôi từng nếm trải
Tôi cảm nhận rằng đấy
chỉ phút giây
Nhưng ai người
trong khoái lạc ngất ngây
Lại đi tính đếm những
giờ khắc ấy.
Bởi hạnh phúc là cả
cõi vĩnh hằng
Nơi ngọn lửa của
tình yêu bừng cháy
Tất cả đam mê cùng
hòa nhập lại
Chẳng có không
gian, chẳng có thời gian.
Für
eine Grille - keckes Wagen!
Für eine Grille -
keckes Wagen! -
Hab ich das Leben
eingesetzt;
Und nun das Spiel
verloren jetzt,
Mein Herz, du
darfst dich nicht beklagen.
Die Sachsen sagen:
»Minschenwille
Ist
Minschen-Himmelryk« - Ich gab
Das Leben hin,
jedoch ich hab
Verwirklicht meines
Herzens Grille!
Die Seligkeit, die
ich empfunden
Darob, war nur von
kurzer Frist:
Doch wer von Wonne
trunken ist,
Der rechnet nicht
nach eitel Stunden.
Wo Seligkeit, ist
Ewigkeit;
Hier lodern alle
Liebesflammen
In eine einzge Glut
zusammen,
Hier gibt es weder
Raum noch Zeit.