Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

Thơ tình Heinrich Heine - Phần 12


 

Christian Johann Heinrich Heine (13/12/1797 – 17/2/1856) – nhà thơ, nhà văn Đức, là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XIX. Tên tuổi của Heine đặt ngang hàng với Goethe, Schiller…

Tiểu sử:
Heinrich Heine sinh ở Düsseldorf, Đức trong gia đình một thương gia gốc Do Thái có bốn người con. Heine học ở các trường Đại học Göttingen, Bonn và Berlin, chịu ảnh hưởng của triết học Hegel. Năm 1825 nhận bằng tiến sĩ luật và hành nghề luật nhưng say mê văn chương, cả thơ ca lẫn văn xuôi. Tác phẩm đầu tay Những bức tranh du lịch (Reisebilder, nhiều tập, xuất bản trong các năm 1826, 1827, 1829, 1831) đã mang lại danh tiếng cho ông và tiếp đấу, ông đã có thể sống được bằng nghề văn. Thành công nаy cho phép Heine cộng tác lâu năm với một nhà xuất bản ở Hamburg. Thời gian nаy ông đi sang Anh tìm kiếm cảm hứng để viết tiếp các tập sau. Quyển thơ đầu tiên Những bài thơ (Gedichte), sáng tác năm 1821, về một tình yêu cuồng si với người em họ Amalie. Tình yêu này đã truyền cảm hứng cho ông viết nên những bài thơ tình hay nhất. Tập Quyển sách những bài ca (Buch der Lieder, 1827) là tuyển tập thơ đầu tiên có đầy đủ các bài thơ ông viết. 

Năm 1831, Heine rời Đức sang Paris, Pháp và sống ở đó cho đến hết đời, ngoại trừ một lần trở lại Đức năm 1843. Ở Pháp, ông đã liên kết với nhóm chủ nghĩa xã hội không tưởng của Count Saint-Simon, người tuyên truyền một thiên đường theo chủ nghĩa quân bình không giai cấp dựa trên những người có tài thực sự. Dù sống ở Pháp nhưng ông sáng tác về nước Đức. Thập niên 1840 ông liên tục cho ra đời những tác phẩm nổi tiếng: Atta Troll: Giấc mộng đêm hè (Atta Troll: Ein Sommernachtstraum, 1847); Thơ Mới (Neue Gedichte, 1844); Nước Đức. Câu chuyện cổ mùa đông (Deutschland, ein Wintermrchen, 1844).


Những năm tháng cuối đời, Heine bị bệnh nằm liệt giường trong suốt 8 năm trời, tuy vậy ông vẫn tiếp tục sáng tác. Bằng chứng là nhiều tuyệt tác của ông được viết trong thời gian này như Romanzero, 1851; Gedichte 1853–1854… Heinrich Heine mất ngày 17 tháng 2 năm 1856 ở Paris, mai táng tại nghĩa trang Montmartre.


Heinrich Heine là người bà con có họ hàng xa với Karl Marx (1818 – 1883) – nhà triết học, nhà kinh tế, nhà văn, nhà thơ, người sáng lập chủ nghĩa Mác. Họ chơi thân với nhau và từng cộng tác với nhau trong một thời gian ngắn trong việc xuất bản tờ báo “Vorwärts” bằng tiếng Đức ở Paris. Chuyện kể rằng mỗi khi có điều gì xúc động, Marx thường trích dẫn bốn câu thơ của Heine:

Cô gái bên bờ biển
Đưa mắt nhìn hoàng hôn
Cô thở dài ngao ngán
Nhìn hoàng hôn sắp tàn.

(Das Fräulein stand am Meere
Und seufzte lang und bang,
Es rührte sie so sehre
Der Sonnenuntergang).

Karl Marx thường qua lại thăm ông cho đến ngày cuối đời. Chuyện kể rằng, một hôm người ta dọn dẹp lại căn phòng nơi Heine đang dưỡng bệnh, lúc này ông đã yếu lắm rồi. Một phụ nữ giúp việc đã bế ông từ giường lên xe lăn. Nhìn thấy Marx bước vào, Heine vẫn hóm hém nói đùa: “Anh bạn thân mến ạ, anh thấy đấy, cho đến lúc này tôi vẫn được phụ nữ bế trên tay”.

Thời Đức quốc xã lên nắm quyền ở Đức tác phẩm của Heine bị cấm (ngoại trừ mỗi bài thơ “Nàng Loreley” đã trở thành một bài hát dân gian và quá nổi tiếng), tượng đài của ông bị phá hủy. Tiếp đó là sách của ông, cũng như nhiều tác giả nổi tiếng khác có nguồn gốc Do Thái, bị thiêu đốt. Về điều này cũng như về thảm họa của dân tộc Do Thái thời Đức quốc xã,  hai câu thơ của ông trong tác phẩm “Almansor” đã trở thành những lời tiên tri:

Đấy chỉ mới là bước khởi đầu mà thôi
Nơi người ta đốt sách, rồi họ sẽ đốt người.

(Das war ein Vorspiel nur, dort, wo man Bücher
Verbrennt, verbrennt man auch am Ende Menschen).

Heinrich Heine được coi là nhà thơ cuối cùng của “Chủ nghĩa lãng mạn” và là nhà thơ hàng đầu của phong trào này. Ông đã thành công trong việc chuyển hóa ngôn ngữ của đời thường thành ngôn ngữ văn chương, nâng tầm cho những ghi chép thông thường lên một hình thức nghệ thuật, mang lại cho tiếng Đức một vẻ nhẹ nhàng thanh lịch mà trước đó chưa từng có. Thơ của ông được các nhạc sĩ Franz Schubert, Robert Schumann, Richard Wagner… và nhiều nhạc sĩ nổi tiếng khác phổ nhạc. Với gần 10.000 nhạc phẩm đủ mọi thể loại, Heinrich Heine là nhà thơ có thơ được phổ nhạc nhiều nhất mọi thời đại.


Những tác phẩm chính:
– Quyển sách những bài ca (Buch der Lieder, 1827)
– Những bức tranh du lịch (Reisebilder)
Tập 1– Du lịch Harz (Die Harzreise, 1826)
Tập 2 – Biển Bắc (Nordsee) và Ý tưởng. Sách Le Grand (Ideen. Das Buch Le Grand, 1827)
Tập 3 – Du lịch từ Munich đến Genoe (Reise von München nach Genua) và Bồn tắm Lucca (Die Bäder von Lucca, 1829)
Tập 4 – Thành phố Lucca (Die Stadt Lucca) và Những trích đoạn Anh (Englische Fragmente, 1831)
– Thơ Mới (Neue Gedichte, 1844)
– Nước Đức. Câu chuyện cổ mùa đông (Deutschland, ein Wintermrchen, 1844).
– Atta Troll: Giấc mộng đêm hè (Atta Troll: Ein Sommernachtstraum, 1847)
– Romanzero (Romanzero, 1851)




272.Ở ĐÂU?

Ở đâu, người lữ thứ
Sẽ gửi nắm xương tàn?
Phương Nam, dưới bóng cọ?
Hay dưới liễu sông Ranh?

Hay ở nơi sa mạc
Tay người lạ sẽ chôn?
Hay bên bờ biển xanh
Mộ nằm trên bờ cát?

Ở nơi nào cũng được
Miễn là có bầu trời
Và trên mộ của tôi
Có sao như đèn đốt.

Wo?

Wo wird einst des Wandermüden
Letzte Ruhestätte sein?
Unter Palmen in dem Süden?
Unter Linden an dem Rhein?

Werd ich wo in einer Wüste
Eingescharrt von fremder Hand?
Oder ruh ich an der Küste
Eines Meeres in dem Sand?

Immerhin! Mich wird umgeben
Gotteshimmel, dort wie hier,
Und als Totenlampen schweben
Nachts die Sterne über mir.


273.KHÚC TRÁNG CA

Tôi là ngọn lửa, tôi là thanh gươm.

Tôi soi sáng cho các bạn giữa bóng đêm, và khi trận đánh mở màn, tôi đã tiến lên phía trước, ở hàng đầu tiên.

Xung quanh tôi là xác bạn bè tôi đang nằm, nhưng chúng ta đã thắng. Chúng ta đã thắng, nhưng xác bạn bè tôi vẫn nằm ở xung quanh. Trong tiếng kèn mừng chiến thắng ta nghe ra tiếng kèn của lễ tang. Nhưng chúng ta không có thời gian để mừng vui hoặc đau buồn. Những hồi trống lại nổi lên, giục giã ta bước vào trận đánh.

Tôi là ngọn lửa, tôi là thanh gươm.

Hymnus

Ich bin das Schwert, ich bin die Flamme.

Ich habe euch erleuchtet in der Dunkelheit, und als die Schiacht begann, focht ich voran, in der ersten Reihe.

Rand um mich her liegen die Leichen meiner Freunde, aber wir haben gesiegt. Wir haben gesiegt, aber rund umher liegen die Leichen meiner Freunde. In die jauchzenden Triumphgesänge tönen die Choräle der Totenfeier. Wir haben aber weder Zeit zur Freude noch zur Trauer. Aufs neue erklingen die Drommeten, es gilt neuen Kampf -

Ich bin das Schwert, ich bin die Flamme.


274.GỬI NHÀ THƠ CHÍNH TRỊ

Như Tytai, thơ anh
Ca ngợi những anh hùng
Nhưng thời cuộc thay đổi
Bạn đọc đã không còn.

Họ lắng nghe, tất nhiên
Và không ngớt lời khen
Rằng thơ nhiều ý tưởng
Độc đáo cách gieo vần.

Nhưng tay cầm rượu vang
Hoan hô, họ kêu lên
Và bài ca trận mạc
Họ cùng nhau hát lên.

Và họ vẫn hát vang
Trong quán nhậu tưng bừng
Nhưng chẳng qua là để
Ăn và uống ngon hơn.
____________
*Tyrtäus (Tyrtaios) – nhà thơ Hy Lạp cổ đại sống vào khoảng thế kỷ VII trước CN, người làm thơ ca ngợi những người lính Sparta trong cuộc chiến tranh Messenian thứ 2 (Second Messenian War).

An einen politischen Dichter

Du singst wie einst Tyrtäus sang,
Von Heldenmut beseelet,
Doch hast du schlecht dein Publikum
Und deine Zeit gewählet.

Beifällig horchen sie dir zwar,
Und loben schier begeistert:
Wie edel dein Gedankenflug,
Wie du die Form bemeistert.

Sie pflegen auch beim Glase Wein
Ein Vivat dir zu bringen,
Und manchen Schlachtgesang von dir
Lautbrüllend nachzusingen.

Der Knecht singt gern ein Freiheitslied
Des Abends in der Schenke:
Das fördert die Verdauungskraft
Und würzet die Getränke.


THƠ TUYỂN 1845 – 1856 (Nachgelesene Gedichte 1845 – 1856)

275.KHÁT KHAO TĨNH LẶNG

Hãy để máu chảy ra từ vết thương
Và để nước mắt thành dòng chảy xuống
Trong nỗi buồn có đam mê bí ẩn
Chẳng có rượu vang nào ngọt ngào hơn.

Khi bạn gây ra vết thương cho mình
Mà không phải vì bàn tay ai đó
Thì bạn hãy nhớ cám ơn Thiên Chúa
Vì nước mắt đang chảy xuống triền miên.

Khi tiếng động ngày im ắng, đến đêm
Bạn sẽ tìm ra lặng yên ở đó
Không còn tiếng của người ta la ó
Hay những lời kể khổ của người thân.

Bạn tìm được nơi trú ẩn cho mình
Khỏi tiếng nhạc réo rắt như tra tấn
Khỏi tiếng ồn ào ở Nhà hát Lớn
Nơi tiếng sáo đàn không ngớt ầm vang.

Khỏi danh xưng là nghệ sĩ bậc thầy
Khỏi những lời vang lên như tiếng sấm
Những lời khen từ năm châu bốn biển
Trước vinh quang Giacomo thiên tài.

Ôi ngôi mộ! Thiên đường cho đôi tai
Trước âm thanh ngọt ngào luôn sợ sệt
Chết là tốt, nhưng tốt hơn nếu được
Mẹ đừng sinh ta ra ở trên đời.

Ruhelechzend

Laß bluten deine Wunden, laß
Die Tränen fließen unaufhaltsam -
Geheime Wollust schwelgt im Schmerz,
Und Weinen ist ein süßer Balsam.

Verwundet dich nicht fremde Hand,
So mußt du selber dich verletzen;
Auch danke hübsch dem lieben Gott,
Wenn Zähren deine Wangen netzen.

Des Tages Lärm verhallt, es steigt
Die Nacht herab mit langen Flören.
In ihrem Schoße wird kein Schelm,
Kein Tölpel deine Ruhe stören.

Hier bist du sicher vor Musik,
Vor des Piano-Fortes Folter,
Und vor der großen Oper Pracht
Und schrecklichem Bravourgepolter.

Hier wirst du nicht verfolgt, geplagt
Vom eitlen Virtuosenpacke
Und vom Genie Giacomos
Und seiner Weltberühmtheitsclaque.

O Grab, du bist das Paradies
Für pöbelscheue, zarte Ohren -
Der Tod ist gut, doch besser wärs,
Die Mutter hätt uns nie geboren.


276.TRONG THÁNG NĂM

Những bạn bè tôi quí trọng, mến thương
Họ làm cho tôi đủ điều khốn khổ
Tim tôi đau. Nhưng mặt trời vui vẻ
Luôn mỉm cười để chào đón mùa xuân.

Cây cối đâm chồi. Giữa chốn rừng xanh
Tiếng của chim hót trên cành vui vẻ
Những cô gái và hoa cười hớn hở
Ôi cuộc đời tuyệt đẹp, thật là kinh!

Tôi mê vương quốc thần chết nhiều hơn
Vì ở đó không có gì tương phản
Những con tim khổ đau còn vui sướng
Trên sông Stige dù nước màu đêm.

Nơi đó giọng nói, vẻ mặt u buồn
Có tiếng chim Stymphal ăn thịt
Và tiếng hát thần trả thù khủng khiếp
Tiếng chó Xéc-be-rơ vẫn sủa canh chừng.

Đã đành đấy là xứ sở đau thương
Thung lũng u sầu, vương quốc bóng tối
Nơi nữ thần Proserpinen qua lại
Nhưng hợp hơn với nước mắt người trần.

Còn ở đây thật nghiệt ngã vô cùng
Mặt trời và hoa vẫn làm tôi khổ
Ôi bầu trời, bầu trời xanh danh dự
Ôi cuộc đời tuyệt đẹp, thật là kinh!
______________
*Trong bài này có một số danh từ cần chú thích như sau: *Vương quốc thần chết (Orkus) – tức xứ sở của thần Orkus trong thần thoại La Mã; **sông Stige  dòng sông dưới Địa ngục trong thần thoại Hy Lạp; ***chim Stymphal – là loài chim ăn thịt có lông như mũi tên trong thần thoại Hy Lạp; ****thần trả thù – tức Furies (La Mã), hoặc  Erinyes (Hy Lạp)  là nữ thần trả thù trong thần thoại Hy Lạp, La Mã; *****Cerberus – là chó săn ba đầu, đuôi rắn canh giữ cổng vào Địa ngục trong thần thoại Hy Lạp; ******Proserpinen – là bà hoàng Âm phủ trong thần thoại Hy Lạp, một năm trở lại trần gian vào mùa xuân nên còn được gọi là là nữ thần mùa xuân.

Im Mai

Die Freunde, die ich geküßt und geliebt,
Die haben das Schlimmste an mir verübt.
Mein Herze bricht; doch droben die Sonne,
Lachend begrüßt sie den Monat der Wonne.

Es blüht der Lenz. Im grünen Wald
Der lustige Vogelgesang erschallt,
Und Mädchen und Blumen, sie lächeln jungfräulich -
O schöne Welt, du bist abscheulich!

Da lob ich mir den Orkus fast;
Dort kränkt uns nirgends ein schnöder Kontrast;
Für leidende Herzen ist es viel besser
Dort unten am stygischen Nachtgewässer.

Sein melancholisches Geräusch,
Der Stymphaliden ödes Gekreisch,
Der Furien Singsang, so schrill und grell,
Dazwischen des Cerberus Gebell -

Das paßt verdrießlich zu Unglück und Qual -
Im Schattenreich, dem traurigen Tal,
In Proserpinens verdammten Domänen,
Ist alles im Einklang mit unseren Tränen.

Hier oben aber, wie grausamlich
Sonne und Rosen stechen sie mich!
Mich höhnt der Himmel, der bläulich und mailich -
O schöne Welt, du bist abscheulich!


277.GỬI LAXARƠ

Hãy bỏ những dụ ngôn
Và các giả thuyết thánh
Xin hãy trả lời thẳng
Câu hỏi của người trần.

Tại sao người đàng hoàng
Lại khổ đau, bất hạnh
Sao những thằng đểu cáng
Lại hạnh phúc, vinh quang.

Ai có lỗi? Chúa chăng
Ngài không đủ quyền hạn?
Hay Ngài cũng nghịch ngợm?
Nếu vậy, quả đáng thương.

Cho đến ngày cuối cùng
Ta vẫn còn mong muốn
Chết đất lấp đầy miệng –
Là câu trả lời chăng?

Zum Lazarus

Laß die heilgen Parabolen,
Laß die frommen Hypothesen -
Suche die verdammten Fragen
Ohne Umschweif uns zu lösen.

Warum schleppt sich blutend, elend,
Unter Kreuzlast der Gerechte,
Während glücklich als ein Sieger
Trabt auf hohem Roß der Schlechte?

Woran liegt die Schuld? Ist etwa
Unser Herr nicht ganz allmächtig?
Oder treibt er selbst den Unfug?
Ach, das wäre niederträchtig.

Also fragen wir beständig,
Bis man uns mit einer Handvoll
Erde endlich stopft die Mäuler -
Aber ist das eine Antwort?


278.MỘT CÔ GÁI TÓC ĐEN

Một cô gái tóc đen
Đưa bàn tay ve vuốt
Mái đầu tôi đã bạc
Nước mắt chảy ròng ròng.

Người tôi bị uốn cong
Nụ hôn làm mù mắt
Héo hon trong đầu óc
Vì những nụ hôn nồng.

Thân tôi như xác chết
Linh hồn bị cầm tù
Trên bảo dưới không nghe
Chẳng biết làm sao được.

Sự bất lực chết tiệt!
Giống như một bầy ruồi
Chỉ đành chịu đựng thôi
Đành nguyện cầu và khóc.

Es hatte mein Haupt die schwarze Frau

Es hatte mein Haupt die schwarze Frau
Zärtlich an’s Herz geschlossen;
Ach! meine Haare wurden grau,
Wo ihre Thränen geflossen.

Sie küßte mich lahm, sie küßte mich krank,
Sie küßte mir blind die Augen;
Das Mark aus meinem Rückgrat trank
Ihr Mund mit wildem Saugen.

Mein Leib ist jetzt ein Leichnam, worin
Der Geist ist eingekerkert –
Manchmal wird ihm unwirsch zu Sinn,
Er tobt und rast und berserkert.

Ohnmächtige Flüche! Dein schlimmster Fluch
Wird keine Fliege tödten.
Ertrage die Schickung, und versuch’
Gelinde zu flennen, zu beten.


279.SAO NGƯƠI BÒ CHẬM THẾ

Sao ngươi bò chậm thế
Hở con sên thời gian
Ta nằm yên một chỗ
Đau đớn vì bệnh tình.

Tia nắng hay hy vọng
Không còn ghé nhà ta
Ta biết ngày sắp đến
Nghĩa trang thay cho nhà.

Có lẽ ta đã chết
Từ lâu, chỉ bóng ma
Đêm đêm lại hiện về
Lượn lờ trong đầu óc.

Mà có thể bóng ma
Từ thời nào xưa cổ
Về đây để chọn lựa
Hộp sọ của nhà thơ.

Trò chơi đến lạ kỳ
Của những điều mộng mị
Và bàn tay thi sĩ
Buổi sáng vẫn làm thơ.

Wie langsam kriechet sie dahin

Wie langsam kriechet sie dahin,
Die Zeit, die schauderhafte Schnecke!
Ich aber, ganz bewegunglos
Blieb ich hier auf demselben Flecke.

In meine dunkle Zelle dringt
Kein Sonnenstrahl, kein Hoffnungsschimmer;
Ich weiß, nur mit der Kirchhofsgruft
Vertausch’ ich dies fatale Zimmer.

Vielleicht bin ich gestorben längst;
Es sind vielleicht nur Spukgestalten
Die Phantasieen, die des Nachts
Im Hirn den bunten Umzug halten.

Es mögen wohl Gespenster sein,
Altheidnisch göttlichen Gelichters;
Sie wählen gern zum Tummelplatz
Den Schädel eines todten Dichters. –

Die schaurig süßen Orgia,
Das nächtlich tolle Geistertreiben,
Sucht des Poeten Leichenhand
Manchmal am Morgen aufzuschreiben.


280.TỪNG ĐI QUA BAO VÙNG

Từng đi qua bao vùng
Nhiều bông hoa đã thấy
Nhưng vì lười, không hái
Chỉ kiêu hãnh đi ngang.

Giờ bất hạnh, đáng thương
Giờ sắp nằm trong mộ
Tôi lại nghe rất rõ
Mùi hoa từng bỏ quên.

Có một bông hoa vàng
Cháy lên trong đầu óc
Thấy tiếc đến day dứt
Không thưởng thức một lần.

Chỉ còn an ủi rằng
Sông Lethe quyền lực
Sẽ giúp người ngu ngốc
Quên trong đêm dịu dàng.
____________
*Lethe – dòng sông Quên lãng ở dưới Địa ngục được nói đến trong nhiều tác phẩm cổ, mà đặc biệt là trong “Thần Khúc” của Dante Alighieri.

Einst sah ich viele Blumen blühen

Einst sah ich viele Blumen blühen
An meinem Weg; jedoch zu faul,
Mich pflückend nieder zu bemühen,
Ritt ich vorbei auf stolzem Gaul.

Jetzt, wo ich todessiech und elend,
Jetzt, wo geschaufelt schon die Gruft,
Oft im Gedächtniß höhnend, quälend,
Spukt der verschmähten Blumen Duft.

Besonders eine feuergelbe
Viole brennt mir stets im Hirn.
Wie reut es mich, daß ich dieselbe
Nicht einst genoß, die tolle Dirn.

Mein Trost ist: Lethe’s Wasser haben
Noch jetzt verloren nicht die Macht,
Das dumme Menschenherz zu laben
Mit des Vergessens süßer Nacht.


281.HÌNH DẠNG CỦA NHÂN SƯ

Hình dạng của Nhân sư*
Gán vào người phụ nữ
Chỉ khác phần phụ là
Thân hình con sư tử.

Bóng đen của cái chết
Đây quả đúng Nhân sư
Câu hỏi không giải ra
Cha của chàng Ê-đíp**.

Cũng may, lời giải đáp
Tôi không đủ sức làm
Nếu không, cả thế gian
Sẽ hoang tàn đổ nát.
___________
*Nhân sư (Sphinx) - là một nhân vật thần thoại biến thái động vật được thể hiện bằng một con sư tử nằm với một cái đầu người phụ nữ. Người Hy Lạp cổ cho là một quái vật nữ, “kẻ bóp cổ”, một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp.
**Ê-đíp (Oedipus) – là con trai của vua Laius và hoàng hậu Jocasta thành Thebes (Hy Lạp). Từ trước khi chàng ra đời, có một lời sấm cho rằng chàng là người sẽ giết vua cha và cưới mẹ chàng. Vì vậy, Laius lo sợ và ông đã bàn với hoàng hậu là phải giết Oedipus do sợ chàng sẽ giết cha, cưới mẹ. Cuối cùng, Oedipus lại được giấu đi, và được một người khác nuôi ở nơi khác. Khi chàng lớn lên, lúc đó xứ Thebes gặp một tai họa lớn, có một con Nhân sư quái ác thường ra một câu đố oái oăm, ai không trả lời được thì nó xé xác. Vua Laius nghe tin, ông đi tới trả lời câu hỏi của nó, ở đây Oedipus gặp Laius, họ tranh cãi về hướng đi rồi Oedipus giết Laius mà không biết đó là cha mình. Oedipus tiếp tục đi về Thebes và giải phóng vương quốc này bằng cách giải được câu đố của Nhân sư. Chàng được phong làm vua và cưới hoàng hậu Jocasta góa phụ mà không hề biết đó là mẹ mình. Ngày kia, có một hầu cận già của vua Laius đã cho biết câu chuyện. Khi đó hoàng hậu Jocasta tự tử, Oedipus lấy cái trâm trên đầu hoàng hậu mà chọc đui mắt của mình.

Die Gestalt der wahren Sphinx

Die Gestalt der wahren Sphinx
Weicht nicht ab von der des Weibes;
Faselei ist jener Zusatz
Des betatzten Löwenleibes.

Todesdunkel ist das Rätsel
Dieser wahren Sphinx. Es hatte
Kein so schweres zu erraten
Frau Jokastens Sohn und Gatte.

Doch zum Glücke kennt sein eignes
Rätsel nicht das Frauenzimmer;
Spräch es aus das Lösungswort,
Fiele diese Welt in Trümmer.


282.BA CÔ Ở NGÃ TƯ

Ba cô ở ngã tư
Ngồi quay tơ xe chỉ
Họ thở dài, suy nghĩ
Khi xâu chỉ, xe tơ.

Người đầu tiên phải lo
Xâu chỉ vào guồng sợi
Phải ngậm ướt đầu chỉ
Môi lúc nào cũng khô.

Người thứ hai xoay trục
Để kéo dài vòng đời
Công việc đến buồn cười
Nên mắt cô đỏ rực.

Trong tay cô thứ ba
Là một chiếc kéo lớn
Cô hát bài Thánh ca
Trên mũi cô đầy mụn.

Thôi hãy cắt cho chóng
Sợi chỉ chuộc đời tôi
Để kết thúc cuộc đời
Khổ đau và cay đắng!
___________
*Ba cô – tức ba nữ thần của số phận con người trong thần thoại Hy Lạp (Moirai), La Mã (Parcae). Trong đó Làchesis xâu chỉ (bắt đầu cuộc đời), Cloto kéo sợi (kéo dài cuộc đời) và Atropos cắt chỉ (kết thúc cuộc đời).

Es sitzen am Kreuzweg drei Frauen

Es sitzen am Kreuzweg drei Frauen,
Sie grinsen und spinnen,
Sie seufzen und sinnen;
Sie sind gar häßlich anzuschauen.

Die erste trägt den Rocken,
Sie dreht die Fäden,
Befeuchtet jeden;
Deshalb ist die Hängelippe so trocken.

Die zweite läßt tanzen die Spindel;
Das wirbelt im Kreise,
In drolliger Weise;
Die Augen der Alten sind rot wie Zindel.

Es hält die dritte Parze
In Händen die Schere,
Sie summt Miserere;
Die Nase ist spitz, drauf sitzt eine Warze.

O spute dich und zerschneide
Den Faden, den bösen,
Und laß mich genesen
Von diesem schrecklichen Lebensleide!


283.LỜI KHUYÊN CHÂN THÀNH

Đừng e ngại, rụt rè
Hãy ra tay hành động
Rồi bạn sẽ được dẫn
Cô dâu đến nhà thờ.

Nhớ cho nhạc công tiền
Để họ chơi vui vẻ
Khi ôm hôn mẹ vợ
Nghĩ: “Hãy biến cho nhanh”.

Khen ngợi các quí ông
Đừng làm phiền phụ nữ
Nếu thịt lợn đã mổ
Thì đừng tiếc giăm bông.

Nếu Giáo hội không thương
Hãy thường xuyên thăm họ
Nếu Linh mục ở đó
Biếu ông chai rượu vang.

Nếu ngứa ngáy trong mình
Hãy gãi trong danh dự
Nếu giày đẹp không có
Cứ việc đi dép thường.

Nếu người vợ yêu thương
Nấu món xúp mặn quá
Thì cười: “Búp bê ạ
Xúp em nấu rất ngon”.

Nếu vợ cần chiếc khăn
Mua tặng nàng hai chiếc
Đồ trang sức vàng bạc
Nhớ mua tặng cho nàng.

Hãy làm theo lời khuyên
Và bạn sẽ thỏa mãn
Sống dưới đất yên ổn
Chết được lên thiên đàng.

Guter Rat

Laß dein Grämen und dein Schämen!
Werbe keck und fordre laut,
Und man wird sich dir bequemen,
Und du führest heim die Braut.

Wirf dein Gold den Musikanten,
Denn die Fiedel macht das Fest;
Küsse deine Schwiegertanten,
Denkst du gleich: Hol euch die Pest!

Rede gut von einem Fürsten,
Und nicht schlecht von einer Frau;
Knickre nicht mit deinen Würsten,
Wenn du schlachtest eine Sau.

Ist die Kirche dir verhaßt, Tor,
Desto öfter geh hinein;
Zieh den Hut ab vor dem Pastor,
Schick ihm auch ein Fläschchen Wein.

Fühlst du irgendwo ein Jücken,
Kratze dich als Ehrenmann;
Wenn dich deine Schuhe drücken,
Nun, so zieh Pantoffeln an.

Hat versalzen dir die Suppe
Deine Frau, bezähm die Wut,
Sag ihr lächelnd: Süße Puppe,
Alles was du kochst ist gut.

Trägt nach einem Schal Verlangen
Deine Frau, so kauf ihr zwei;
Kauf ihr Spitzen, goldne Spangen
Und Juwelen noch dabei.

Wirst du diesen Rat erproben,
Dann, mein Freund! genießest du
Einst das Himmelreich dort oben,
Und du hast auf Erden Ruh.


284.VỢ CHỒNG KẺ CẮP

Khi Laura say sưa
Hôn tôi và âu yếm
Thì anh chồng khốn nạn
Lấy sạch tiền của tôi.

Bây giờ túi tôi rỗng
Chẳng lẽ tại Laura
Lẽ thật là cái gì?
Phi-lát đâu cần chứng*.

Thế giới này dối gian
Tôi cần mau từ giã
Sống mà không có tiền
Coi như chết một nửa.

Hỡi những hồn hằng phúc
Tôi muốn về đó ngay
Nơi đó có đủ đầy
Không ai cần ăn cắp.
_______
*Lẽ thật là cái gì? – đây là câu mà quan xét xử Phi-lát hỏi Giêsu trong Kinh Thánh (Giăng, 18: 38).

Schnapphahn und Schnapphenne

Derweilen auf dem Lotterbette
Mich Lauras Arm umschlang - der Fuchs,
Ihr Herr Gemahl, aus meiner Buchs
Stibitzt er mir die Bankbillette.

Da steh ich nun mit leeren Taschen!
War Lauras Kuß gleichfalls nur Lug?
Ach! Was ist Wahrheit? Also frug
Pilat und tät die Händ sich waschen.

Die böse Welt, die so verdorben,
Verlaß ich bald, die böse Welt.
Ich merke: hat der Mensch kein Geld,
So ist der Mensch schon halb gestorben.

Nach Euch, Ihr ehrlich reinen Seelen,
Die Ihr bewohnt das Reich des Lichts,
Sehnt sich mein Herz. Dort braucht Ihr nichts,
Und braucht deshalb auch nicht zu stehlen.


285.ĐỪNG NHỚ ĐẾN HẮN TA

“Đừng nhớ đến hắn ta!”
Nhiều lần tôi nghe thấy
Bà Esther Wolf  nói vậy
Tôi còn nhớ đến giờ.

Người đời quên hắn ta
Sẽ không còn dấu vết
Kẻ đáng nguyền rủa nhất
Đừng nhớ đến hắn ta!

Dù trong trái tim kia
Máu sôi như cơn lũ
Nhưng đừng nhắc về nó
Đừng nhớ đến hắn ta!

Đừng nhớ đến hắn ta!
Trong lời ca, trong sách
Cứ để cho hắn chết
Như con chó trong mồ.

Cả khi kèn gọi ra
Người chết nằm trong mộ
Khi trong ngày phán xử
Đám đông đứng trước tòa.

Thiên thần sẽ gọi ra
Ai phải về địa ngục
Ai thiên đường hạnh phúc
Đừng nhớ đến hắn ta!

Nicht gedacht soll seiner werden!

»Nicht gedacht soll seiner werden!«
Aus dem Mund der armen alten
Esther Wolf hört ich die Worte,
Die ich treu im Sinn behalten.

Ausgelöscht sein aus der Menschen
Angedenken hier auf Erden,
Ist die Blume der Verwünschung -
Nicht gedacht soll seiner werden!

Herz, mein Herz, ström aus die Fluten
Deiner Klagen und Beschwerden,
Doch von ihm sei nie die Rede -
Nicht gedacht soll seiner werden!

Nicht gedacht soll seiner werden,
Nicht im Liede, nicht im Buche -
Dunkler Hund im dunkeln Grabe,
Du verfaulst mit meinem Fluche!

Selbst am Auferstehungstage,
Wenn, geweckt von den Fanfaren
Der Posaunen, schlotternd wallen
Zum Gericht die Totenscharen,

Und alldort der Engel abliest
Vor den göttlichen Behörden
Alle Namen der Geladnen -
Nicht gedacht soll seiner werden!


286.VỚI NHỮNG NGƯỜI HẠNH PHÚC

Với những người hạnh phúc
Tôi không ghen cuộc đời
Nhưng tôi ghen họ chết
Thật nhàn nhã, thảnh thơi.

Đang trong bữa tiệc vui
Mặc áo quần sang trọng
Bỗng tử thần ập đến
Dùng lưỡi hái bắt ngay.

Quần áo đẹp, hoa tươi
Như khi đang còn sống
Vào vương quốc của bóng
Người yêu của thần tài.

Không đau ốm liệt giường
Cái chết là ân sủng
Và được đến cung điện
Của nữ thần mùa xuân*.

Còn tôi đã bảy năm
Vẫn mong chờ cái chết
Vậy mà không chết được
Chỉ dằn vặt trên giường.

Xin rút ngắn thời gian
Xin nguyện cầu Thiên Chúa!
Bởi vì chịu đau khổ
Tôi không có tài năng.

Tôi lấy làm ngạc nhiên
Bởi một điều nghịch lý:
Sao nhà thơ vui vẻ
Lại chẳng có hân hoan?

Hãy cho tôi được chết
Đừng bắt tôi u buồn
Để tôi sẽ trở thành
Người theo đạo Cơ đốc.

Tôi van xin hết mực
Theo cách của con chiên:
Xin Ngài kết thúc giùm
Kẻ khôi hài số một!
_____________
*Proserpine – là nữ thần trong thần thoại Hy Lạp, qua câu chuyện về nữ thần này, được người đời gọi là nữ thần của mùa xuân.

Die Söhne des Glückes beneid ich nicht

Die Söhne des Glückes beneid ich nicht
Ob ihrem Leben, beneiden
Will ich sie nur ob ihrem Tod,
Dem schmerzlos raschen Verscheiden.

Im Prachtgewand, das Haupt bekränzt
Und Lachen auf der Lippe,
Sitzen sie froh beim Lebensbankett -
Da trifft sie jählings die Hippe.

Im Festkleid und mit Rosen geschmückt,
Die noch wie lebend blühten,
Gelangen in das Schattenreich
Fortunas Favoriten.

Nie hatte Siechtum sie entstellt,
Sind Tote von guter Miene,
Und huldreich empfängt sie an ihrem Hof
Zarewna Proserpine.

Wie sehr muß ich beneiden ihr Los!
Schon sieben Jahre mit herben,
Qualvollen Gebresten wälz ich mich
Am Boden und kann nicht sterben!

O Gott, verkürze meine Qual,
Damit man mich bald begrabe;
Du weißt ja, daß ich kein Talent
Zum Martyrtume habe.

Ob deiner Inkonsequenz, o Herr,
Erlaube, daß ich staune:
Du schufest den fröhlichsten Dichter, und raubst
Ihm jetzt seine gute Laune.

Der Schmerz verdumpft den heitern Sinn
Und macht mich melancholisch;
Nimmt nicht der traurige Spaß ein End,
So werd ich am Ende katholisch.

Ich heule dir dann die Ohren voll,
Wie andre gute Christen -
O Miserere! Verloren geht
Der beste der Humoristen!


287.ÔI VĨNH HẰNG

Ôi Vĩnh hằng, sao mà ngươi dài thế
Ngươi nhiều hơn, so với cả nghìn năm…
Một nghìn năm tôi đã từng đốt cháy
Mà vẫn không tìm ra điểm cuối cùng

Ôi Vĩnh hằng, sao mà ngươi dài thế
Ngươi nhiều hơn, so với cả nghìn năm…
Và cuối cùng quỉ Sa tăng cũng tới
Gặm nhấm tôi cả da thịt và xương.

Ewigkeit, wie bist du lang

Ewigkeit, wie bist du lang,
Länger noch als tausend Jahr;
Tausend Jahre brat ich schon,
Ach! und ich bin noch nicht gar.

Ewigkeit, wie bist du lang,
Länger noch als tausend Jahr;
Und der Satan kommt am End,
Frißt mich auf mit Haut und Haar.


288.CÁI CHẾT VỀ BÂY GIỜ TÔI MỚI NÓI

Cái chết về. Bây giờ tôi mới nói
Đành bỏ qua thề thốt một lời nguyền
Rằng con tim đã bao năm nhức nhối
Một nỗi buồn mòn mỏi chỉ vì em.

Quan tài đợi. Và bóng đen cau có
Tôi ngủ quên trong giấc ngủ muôn đời
Chỉ mình em, Maria, hãy nhớ
Chỉ mình em khóc thương tiếc cho tôi.

Bàn tay đẹp em nhớ đừng làm hỏng
Chỉ thế thôi số phận của con người
Ai chỉ sống với cuộc đời cao thượng
Khi chết rồi chỉ còn tiếc mà thôi.

Es kommt der Tod - jetzt will ich sagen

Es kommt der Tod - jetzt will ich sagen,
Was zu verschweigen ewiglich
Mein Stolz gebot: für dich, für dich,
Es hat mein Herz für dich geschlagen!

Der Sarg ist fertig, sie versenken
Mich in die Gruft. Da hab ich Ruh.
Doch du, doch du, Maria, du
Wirst weinen oft und mein gedenken.

Du ringst sogar die schönen Hände -
O tröste dich - Das ist das Los,
Das Menschenlos: - was gut und groß
Und schön, das nimmt ein schlechtes Ende.


289.TÔI KHÔNG HỀ QUYẾN RŨ

Tôi không hề quyến rũ
Thiếu nữ bằng thơ tình
Không đụng đến phụ nữ
Nếu người đó có chồng.

Bởi nếu tôi nói phét
Thì đâu còn xứng danh
Và bạn sẽ có quyền
Nhổ nước bọt vào mặt.

Hab eine Jungfrau nie verführet

Hab eine Jungfrau nie verführet
Mit Liebeswort, mit Schmeichelei;
Ich hab auch nie ein Weib berühret,
Wußt ich, daß sie vermählet sei.

Wahrhaftig, wenn es anders wäre,
Mein Name, er verdiente nicht
Zu strahlen in dem Buch der Ehre;
Man dürft mir spucken ins Gesicht.


290.CHÉN TÌNH TÔI UỐNG CẠN

Chén tình tôi uống cạn
Cho đến giọt cuối cùng
Nó giống như rượu mạnh
Làm sức lực tiêu tan.

Bây giờ tôi chuyển sang
Chén bạn bè nồng ấm
Giống như cốc trà nóng
Ấm áp tận ruột gan.

Geleert hab ich nach Herzenswunsch

Geleert hab ich nach Herzenswunsch
Der Liebe Kelch, ganz ausgeleert;
Das ist ein Trank, der uns verzehrt
Wie flammenheißer Kognakpunsch.

Da lob ich mir die laue Wärme
Der Freundschaft; jedes Seelenweh
Stillt sie, erquickend die Gedärme
Wie eine fromme Tasse Tee.


291.BẠN TÔI ƠI PHẠM THƯỢNG!

Bạn tôi ơi, phạm thượng!
Khi bạn làm điều này:
Bỏ Hanne tròn lẳn
Để yêu Marianne gầy!

Nếu yêu thịt – thì bạn
Được coi là bình thường
Còn phóng đãng với xương
Điều này là ghê tởm.

Quỉ Sa tăng nham hiểm
Đưa ta vào bẫy đây
Giống như người ăn mặn
Bỗng dưng thích ăn chay.

Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig

Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig
Wirst du deiner fetten Hanne,
Und du liebst jetzt jene spinnig
Dürre, magre Marianne!

Läßt man sich vom Fleische locken,
Das ist immer noch verzeihlich;
Aber Buhlschaft mit den Knochen,
Diese Sünde ist abscheulich!

Das ist Satans böse Tücke,
Er verwirret unsre Sinne:
Wir verlassen eine Dicke,
Und wir nehmen eine Dünne!


292.TÔI KHÔNG MÊ ĐỒNG CỎ CHỐN THIÊN ĐÀNG

Tôi không mê đồng cỏ chốn thiên đàng
Và cuộc sống ở nơi đầy hằng phúc
Những phụ nữ dưới đất này xinh đẹp
Tôi không hề đi kiếm ở trời xanh.

Cả những cô tiên dịu dàng đôi cánh
Không thể nào thay thế được vợ tôi
Cũng không phải trò tiêu khiển như vầy:
Ngồi trên mây hát những bài Thánh Vịnh.

Tốt nhất là nơi trần thế, Chúa ơi
Ngài cho phép cuộc đời tôi tiếp tục
Tôi chỉ xin sức khỏe cho thân xác
Và đừng quên cho một ít tiền tiêu.

Tôi biết thế gian tội lỗi còn nhiều
Nhưng tôi đã quen và tôi chịu đựng
Bản thân tôi cũng bao phen lận đận
Trên con đường còn lắm nước mắt rơi.

Cảnh lăng xăng bận rộn của người đời
Chẳng hề làm tôi vui hay buồn bực
Tôi chỉ thích khoác áo choàng, đi dép
Ngồi hàn huyên với vợ ở nhà thôi.

Hãy để cho tôi sống với người này
Nghe giọng nói ngọt ngào như suối nhạc
Nhìn vẻ âu yếm dịu dàng trong mắt
Rất thủy chung, trung thực của vợ tôi.

Chỉ sức khỏe và một ít tiền tiêu
Là những điều mà tôi cầu xin Chúa
Và xin thêm những tháng ngày dài nữa
Bên người vợ hiền, và chỉ thế thôi.

Mich locken nicht die Himmelsauen

Mich locken nicht die Himmelsauen
Im Paradies, im selgen Land;
Dort find ich keine schönre Frauen
Als ich bereits auf Erden fand.

Kein Engel mit den feinsten Schwingen
Könnt mir ersetzen dort mein Weib;
Auf Wolken sitzend Psalmen singen,
Wär auch nicht just mein Zeitvertreib.

O Herr! ich glaub, es wär das Beste,
Du ließest mich in dieser Welt;
Heil nur zuvor mein Leibgebreste,
Und sorge auch für etwas Geld.

Ich weiß, es ist voll Sünd und Laster
Die Welt; jedoch ich bin einmal
Gewöhnt, auf diesem Erdpechpflaster
Zu schlendern durch das Jammertal.

Genieren wird das Weltgetreibe
Mich nie, denn selten geh ich aus;
In Schlafrock und Pantoffeln bleibe
Ich gern bei meiner Frau zu Haus.

Laß mich bei ihr! Hör ich sie schwätzen,
Trinkt meine Seele die Musik
Der holden Stimme mit Ergötzen.
So treu und ehrlich ist ihr Blick!

Gesundheit nur und Geldzulage
Verlang ich, Herr! O laß mich froh
Hinleben noch viel schöne Tage
Bei meiner Frau im statu quo!


293.NHÃ CA

Thân thể người phụ nữ
Quả là một bài thơ
Do Thượng Đế tạo ra
Từ ngày đầu sáng tạo.

Trong một giờ nào đấy
Ngài đã rất vui mừng
Từ vật liệu đầu tiên
Ngài bắt đầu làm chủ.

Cơ thể người phụ nữ
Quả là một bài ca
Mà lời ca tuyệt vời
Không gì hơn được nữa.

Ý tưởng của Thượng Đế
Chính là chiếc cổ trần
Chính là mái tóc xoăn
Đặt ở trên đầu nhỏ.

Núm vú như nụ hồng
Là bài thơ trào phúng
Đẹp ngoài sự tưởng tượng
Là lạch nhỏ cách ngăn.

Ngài tạo ra cặp đùi
Như làm bằng nhựa dẻo
Đằng sau chiếc lá vả
Là nơi chốn tuyệt vời.

Thơ Ngài không trìu tượng
Có da thịt, tay chân
Biết cười và biết hôn
Bằng bờ môi âu yếm.

Thơ ở trong mọi chỗ
Thơ ở từng bước đi
Trên trán của bài ca
Đẹp đến mức hoàn mỹ.

Con khen Ngài, Thượng Đế
Trước Ngài, xin cúi mình!
So với Nhà thơ Thiên
Con chỉ đồ cẩu thả.

Con muốn chìm – Lạy Chúa!
Trong tác phẩm của Ngài
Suốt cả đêm cả ngày
Con miệt mài nghiên cứu.

Suốt cả đêm cả ngày
Con không ngừng tìm hiểu
Đôi chân con gầy yếu
Vì sự nghiên cứu này.


Das Hohelied

Des Weibes Leib ist ein Gedicht,
Das Gott der Herr geschrieben
Ins große Stammbuch der Natur,
Als ihn der Geist getrieben.

Ja, günstig war die Stunde ihm,
Der Gott war hochbegeistert;
Er hat den spröden, rebellischen Stoff
Ganz künstlerisch bemeistert.

Fürwahr, der Leib des Weibes ist
Das Hohelied der Lieder;
Gar wunderbare Strophen sind
Die schlanken, weißen Glieder.

O welche göttliche Idee
Ist dieser Hals, der blanke,
Worauf sich wiegt der kleine Kopf,
Der lockige Hauptgedanke!

Der Brüstchen Rosenknospen sind
Epigrammatisch gefeilet;
Unsäglich entzückend ist die Zäsur,
Die streng den Busen teilet.

Den plastischen Schöpfer offenbart
Der Hüften Parallele;
Der Zwischensatz mit dem Feigenblatt
Ist auch eine schöne Stelle.

Das ist kein abstraktes Begriffspoem!
Das Lied hat Fleisch und Rippen,
Hat Hand und Fuß; es lacht und küßt
Mit schöngereimten Lippen.

Hier atmet wahre Poesie!
Anmut in jeder Wendung!
Und auf der Stirne trägt das Lied
Den Stempel der Vollendung.

Lobsingen will ich dir, o Herr,
Und dich im Staub anbeten!
Wir sind nur Stümper gegen dich,
Den himmlischen Poeten.

Versenken will ich mich, o Herr,
In deines Liedes Prächten;
Ich widme seinem Studium
Den Tag mitsamt den Nächten.

Ja, Tag und Nacht studier ich dran,
Will keine Zeit verlieren;
Die Beine werden mir so dünn -
Das kommt vom vielen Studieren.


294.HỌC THUYẾT

Hãy đánh trống thật to
Hãy hôn nàng thắm thiết
Đấy là môn khoa học
Đấy ý nghĩa sâu xa.

Người đang ngủ hãy thức
Bằng sức sống trẻ trung
Đánh trống khi diễu hành
Đấy là môn khoa học.

Đấy triết học Hegel
Ý nghĩa sâu xa nhất
Vì tôi tay trống tốt
Vì tôi người thông minh.

Doktrin

Schlage die Trommel und fürchte dich nicht,
Und küsse die Marketenderin!
Das ist die ganze Wissenschaft,
Das ist der Bücher tiefster Sinn.

Trommle die Leute aus dem Schlaf,
Trommle Reveille mit Jugendkraft,
Marschiere trommelnd immer voran,
Das ist die ganze Wissenschaft.

Das ist die Hegelsche Philosophie,
Das ist der Bücher tiefster Sinn!
Ich hab sie begriffen, weil ich gescheit,
Und weil ich ein guter Tambour bin.


295.ADAM ĐẦU TIÊN

Ngài phái những thiên binh
Với giáo gươm rực lửa
Đuổi con khỏi thiên đàng
Vì tội con phạm phải.

Con với vợ của mình
Sống ở cõi trần gian
Nhưng vẫn mê trái cấm
Ngài không thể cấm con.

Con đã biết được rằng
Điều đó thật đáng thương
Dù cái chết, sấm sét
Ngài vẫn dọa chúng con.

Và lại cũng đáng thương
“Ta khuyên ngươi hãy biến!”
Và cả thứ ánh sáng
“Ánh sáng cho thế gian!”

Không thể nào tưởng tượng
Không thể nào hình dung
Sao lại gọi Thiên đường
Mà vẫn còn trái cấm?

Con muốn tự do hẳn
Không cấm đoán điều chi
Thiên đường mà cấm đoán
Là Địa ngục, Nhà tù.
______________
*Consilium-abeundi! (lời khuyên ra đi – tiếng Latinh); Lumen-Mundi! (ánh sáng cho thế gian – tiếng Latinh).

Adam der Erste

Du schicktest mit dem Flammenschwert
Den himmlischen Gensd’armen,
Und jagtest mich aus dem Paradies,
Ganz ohne Recht und Erbarmen!

Ich ziehe fort mit meiner Frau
Nach and’ren Erdenländern;
Doch daß ich genossen des Wissens Frucht,
Das kannst du nicht mehr ändern.

Du kannst nicht ändern, daß ich weiß
Wie sehr du klein und nichtig,
Und machst du dich auch noch so sehr
Durch Tod und Donnern wichtig.

O Gott! wie erbärmlich ist doch dies
Consilium-abeundi!
Das nenne ich einen Magnifikus
Der Welt, ein Lumen-Mundi!

Vermissen werde ich nimmermehr
Die paradiesischen Räume;
Das war kein wahres Paradies –
Es gab dort verbotene Bäume.

Ich will mein volles Freiheitsrecht!
Find’ ich die g’ringste Beschränkniß,
Verwandelt sich mir das Paradies
In Hölle und Gefängniß.


296.ĐIỀU BÍ MẬT

Không thổn thức, lệ rơi
Dù tiếng cười nghe rõ
Trong mắt không thấy rõ
Bí mật giấu trong tôi.

Ẩn giấu tận trong lòng
Nỗi khổ đau câm nín
Con tim dù đau đớn
Miệng vẫn cứ lặng im.

Hãy hỏi trẻ trong nôi
Người chết rồi trong mộ
Có lẽ họ biết rõ
Điều bí mật trong tôi.

Geheimnis

Wir seufzen nicht, das Aug ist trocken,
Wir lächeln oft, wir lachen gar!
In keinem Blick, in keiner Miene,
Wird das Geheimnis offenbar.

Mit seinen stummen Qualen liegt es
In unsrer Seele blutgem Grund;
Wird es auch laut im wilden Herzen,
Krampfhaft verschlossen bleibt der Mund.

Frag du den Säugling in der Wiege,
Frag du die Toten in dem Grab,
Vielleicht daß diese dir entdecken,
Was ich dir stets verschwiegen hab.


297.SỰ THOÁI HÓA

Thiên nhiên cũng xuống cấp
Đều gian dối cả thôi
Cả động vật, thực vật
Cũng gian dối như người.

Huệ không còn trinh trắng
Tôi đã chẳng còn tin
Bướm lượn vòng âu yếm
Thì đâu còn trắng trong.

Hoa tím vốn khiêm nhường
Giờ không còn thế nữa
Loài hoa này giờ đã
Khao khát sự vinh quang.

Tình cảm đã không còn
Trong lời sơn ca hót
Và tiếng lòng thổn thức
Dường như chỉ thói quen.

Sự thật, lòng thủy chung
Đều biến mất đâu cả
Cái vẫy đuôi của chó
Không còn vẻ trung thành.

Entartung

Hat die Natur sich auch verschlechtert,
Und nimmt sie Menschenfehler an?
Mich dünkt, die Pflanzen und die Tiere,
Sie lügen jetzt wie jedermann.

Ich glaub nicht an der Lilje Keuschheit,
Es buhlt mit ihr der bunte Geck,
Der Schmetterling; er küßt und flattert
Am End mit ihrer Unschuld weg.

Von der Bescheidenheit der Veilchen
Halt ich nicht viel. Die kleine Blum,
Mit den koketten Düften lockt sie,
Und heimlich dürstet sie nach Ruhm.

Ich zweifle auch, ob sie empfindet,
Die Nachtigall, das was sie singt;
Sie übertreibt und schluchzt und trillert
Nur aus Routine, wie mich dünkt.

Die Wahrheit schwindet von der Erde,
Auch mit der Treu ist es vorbei.
Die Hunde wedeln noch und stinken
Wie sonst, doch sind sie nicht mehr treu.


298.BÊN KIA SÔNG RANH

Giữa đồng cỏ hoang sơ
Giữa hoa hồng thơm ngát
Láu lỉnh và khù khờ
Yêu nhau theo đủ cách
Trong nghệ thuật tình yêu
Bậc thầy là người Pháp.

Còn chúng ta hiểu nhau
Người Đức chỉ biết ghét
Chất chứa ở trong đầu
Hận thù như thuốc độc
Giá như mà đem rót
Thùng Hai-đơ-béc bé teo*.
________________
*Thùng ở Heidelberg – là một chiếc thùng cực lớn bằng gỗ sồi có dung tích 212.422 lít dùng để ủ rượu vang được đặt ngầm dưới một tòa lâu đài. Đây là một danh thắng nổi tiếng của thành phố Heidelberg.

Diesseits und jenseits des Rheins

Sanftes Rasen, wildes Kosen,
Tändeln mit den glühnden Rosen,
Holde Lüge, süßer Dunst,
Die Veredlung roher Brunst,
Kurz, der Liebe heitre Kunst -
Da seid Meister ihr, Franzosen!

Aber wir verstehn uns baß,
Wir Germanen, auf den Haß.
Aus Gemütes Tiefen quillt er,
Deutscher Haß! Doch riesig schwillt er,
Und mit seinem Gifte füllt er
Schier das Heidelberger Faß.

Thùng Hai-đơ-béc


299.NƯỚC ĐỨC QUÊ HƯƠNG TÔI

Nước Đức quê hương tôi
Đâu cũng có cây đời
Trái chín mọng, nhưng khổ
Hình nộm dọa khắp nơi.

Ta như bầy chim sẻ
Sợ yêu tinh, quỉ sứ
Nhìn anh đào nở hoa
Mà đành lòng nín chịu.

Anh đào đỏ, nhưng hột
Bên trong là cái chết
Chỉ ở trên trời cao
Có anh đào không hột.

Chúa Cha – Con – Thánh thần
Mà hồn ta ngợi khen
Khát khao cái vĩnh cửu
Linh hồn Đức đáng thương.

Chỉ nơi có thiên thần
Là hạnh phúc muôn năm
Còn ở đây đau khổ
Anh đào cũng chua lòm.


Im lieben Deutschland daheime

Im lieben Deutschland daheime,
Da wachsen viel Lebensbäume;
Doch lockt die Kirsche noch so sehr,
Die Vogelscheuche schreckt noch mehr.

Wir lassen uns wie Spatzen
Einschüchtern von Teufelsfratzen;
Wie auch die Kirsche lacht und blüht,
Wir singen ein Entsagungslied:

Die Kirschen sind von außen rot,
Doch drinnen steckt als Kern der Tod;
Nur droben, wo die Sterne,
Gibts Kirschen ohne Kerne.

Gott Vater, Gott Sohn, Gott heiliger Geist,
Die unsere Seele lobt und preist -
Nach diesen sehnet ewiglich
Die arme deutsche Seele sich.

Nur wo die Engel fliegen,
Da wächst das ewge Vergnügen;
Hier unten ist alles Sünd und Leid
Und saure Kirsche und Bitterkeit.


300.CELIMENE

Đừng nghĩ tôi ngu dốt
Mà bỏ quá cho em
Đừng nghĩ tôi thiên thần
Lỗi lầm đều tha tuốt.

Chỉ với tôi mà thôi
Bởi vì tôi nhẫn nhục
Còn nếu như người khác
Họ đã giết em rồi.

Thập ác nặng cho tôi
Nhưng kiên trì chịu đựng
Lỗi lầm tôi đã phạm
Bởi vì yêu em rồi.

Em – Tĩnh ngục của tôi
Nhưng vì vòng tay xấu
Tôi sẽ xin chuộc tội
Bằng ân sủng của Ngài.

Celimene

Glaube nicht, daß ich aus Dummheit
Dulde deine Teufeleien;
Glaub auch nicht, ich sei ein Herrgott,
Der gewohnt ist zu verzeihen.

Deine Nücken, deine Tücken
Hab ich freilich still ertragen.
Andre Leut an meinem Platze
Hätten längst dich tot geschlagen.

Schweres Kreuz! Gleichviel, ich schlepp es!
Wirst mich stets geduldig finden -
Wisse, Weib, daß ich dich liebe,
Um zu büßen meine Sünden.

Ja, du bist mein Fegefeuer,
Doch aus deinen schlimmen Armen
Wird geläutert mich erlösen
Gottes Gnade und Erbarmen.


301.CUỘC ĐỜI CỦA TÔI

Cuộc đời của tôi xưa nay tôi vẫn
Đem dâng cho những ham muốn nhất thời
Và lần này lại nếm vị đắng cay
Con tim của ta ơi đừng than vãn.

Như người Xắc-xông từ xưa đã nói
“Người hạnh phúc sống theo số phận mình”
Cuộc đời đã trôi qua, tôi bằng lòng
Và con tim tôi chẳng hề tiếc nuối.

Niềm hạnh phúc mà tôi từng nếm trải
Tôi cảm nhận rằng đấy chỉ phút giây
Nhưng ai người trong khoái lạc ngất ngây
Lại đi tính đếm những giờ khắc ấy.

Bởi hạnh phúc là cả cõi vĩnh hằng
Nơi ngọn lửa của tình yêu bừng cháy
Tất cả đam mê cùng hòa nhập lại
Chẳng có không gian, chẳng có thời gian.

Für eine Grille - keckes Wagen!

Für eine Grille - keckes Wagen! -
Hab ich das Leben eingesetzt;
Und nun das Spiel verloren jetzt,
Mein Herz, du darfst dich nicht beklagen.

Die Sachsen sagen: »Minschenwille
Ist Minschen-Himmelryk« - Ich gab
Das Leben hin, jedoch ich hab
Verwirklicht meines Herzens Grille!

Die Seligkeit, die ich empfunden
Darob, war nur von kurzer Frist:
Doch wer von Wonne trunken ist,
Der rechnet nicht nach eitel Stunden.

Wo Seligkeit, ist Ewigkeit;
Hier lodern alle Liebesflammen
In eine einzge Glut zusammen,
Hier gibt es weder Raum noch Zeit.


5 nhận xét: